NHẤP CHUỘT VÀO ĐÂY ĐỂ XEM TRƯỚC TÀI LIỆU
Để mua bản Word khách vui lòng liên hệ theo thông tin điện thoại hoặc zalo 098.789.3491.
NGHỊ
LUẬN VỀ MỘT TÁC PHẨM, ĐOẠN TRÍCH VĂN XUÔI
1. Kiến thức chung:
-
Đối tượng của bài nghị luận về một tác phẩm, một đoạn trích văn xuôi, tức là
tìm hiểu giá trị nội dung, nghệ thuật của một tác phẩm hoặc một đoạn trích.
-
Cần phải giới thiệu khái quát tác phẩm hoặc đoạn trích.
-
Bàn về giá trị nội dung nghệ thuật của tác phẩm, đoạn trích theo định hướng của
đề bài.
-
Đánh giá chung về tác phẩm, đoạn trích văn xuôi.
2. Cách làm.
-
Xác định yêu cầu của đề bài, những từ ngữ, câu văn chứa đựng nội dung phục vụ
cho yêu cầu của đề.
-
Xác lập được luận điểm chính, sử dụng các thao tác lập luận để làm rõ luận điểm.
-
Kết hợp giữa phân tích nội dung và nghệ thuật, hành văn phải cô đọng, không sáo rỗng.
Giọng văn phải kết hợp giữa lí luận và suy tư cảm xúc.
3. Dàn ý khái quát.
a)
Mở bài:
-
Giới thiệu khái quát về tác giả, hoàn cảnh sáng tác của tác phẩm, đoạn trích.
-
Giới thiệu khái quát yêu cầu của đề bài.
b) Thân bài:
-
Phân tích yêu cầu của đề bài. (Cần phải xây dựng được luận điểm để triển khai ý
theo luận điểm ấy và hướng người đọc theo luận điểm vừa xây dựng của mình).
-
Cần chú ý khai thác từ ngữ, câu văn, các biện pháp tu từ để làm rõ nội dung.
-
Diễn đạt phải rõ ràng, Giọng văn phải kết hợp giữa lí luận và suy tư cảm xúc.
-
Mở rộng so sánh để bài viết được phong phú, thuyết phục. Tránh tóm tắt hoặc kể
xuôi, viết lan man.
c) Kết bài:
-
Đánh giá khái quát nội dung, nghệ thuật tác phẩm hoặc đoạn trích.
-
Tuỳ vào từng đề bài mở rộng, liên hệ với đời sống.
Đề bài vận dụng:
Đề
bài 1:
Tuỳ bút Sông Đà là
thành quả nghệ thuật đẹp đẽ mà Nguyễn Tuân đã thu hoạch được trong chuyến đi
gian khổ và hào hứng tới miền Tây Bắc rộng lớn, xa xôi của Tổ quốc, nơi ông đã
khám phá ra chất vàng của thiên nhiên cùng “thứ vàng mười đã qua thử lửa” ở tâm
hồn của những người lao động.
Anh
(chị) hãy làm rõ “thứ vàng mười đã qua thử lửa” ở nhân vật người lái đò trong
tuỳ bút Người lái đò sông Đà của Nguyễn Tuân.
Đề
bài 2:
Phân tích vẻ đẹp của
đoạn văn sau:
“Trên đầu núi, các
nương ngô, nương lúa gặt xong, ngô lúa đã xếp yên đầy các nhà kho. Trẻ con đi
hái bí đỏ, tinh nghịch, đã đốt những lều canh nương để sưởi lửa. Ở Hồng Ngài
người ta thành lệ cứ ăn Tết khi gặt hái vừa xong, không kể ngày, tháng nào. Ăn
Tết như thế cho kịp lúc mưa xuân xuống thì đi vỡ nương mới. Hồng Ngài năm ấy ăn
Tết giữa lúc gió thổi vào cỏ gianh vàng ửng, gió và
rét rất dữ dội.
Nhưng trong các làng
Mèo đỏ, những chiếc váy hoa đã đem ra phơi trên mỏm đá xòe như con bướm sặc sỡ
[...] Đám trẻ đợi Tết, chơi quay, cười ầm trên sân chơi trước nhà. Ngoài đầu
núi lấp ló đã có tiếng ai thổi sáo rủ bạn đi chơi. Mị nghe tiếng sáo vọng lại,
thiết tha bổi hổi. Mị ngồi nhẩm thầm bài hát của người đang thổi:
Mày có con trai con
gái rồi
Mày đi làm nương
Ta không có con trai
con gái
Ta đi tìm người yêu
Tiếng chó sủa xa xa.
Những đêm tình mùa xuân đã tới.”
(Tô
Hoài, “Vợ chồng A Phủ”, Ngữ Văn 12, tập Hai, Nxb Giáo dục, Hà Nội, 2008).
Gợi ý giải đề:
Đề bài 1:
a)
Giới thiệu hoàn cảnh ra đời, mục đích sáng tác Tùy bút sông Đà của Nguyễn
Tuân.
b)
Giải thích ý của cụm từ “thứ vàng mười đã qua thử lửa”
-
Từ dùng của nguyễn Tuân - để chỉ vẻ đẹp tâm hồn của những con người lao động và
chiến đấu trên vùng sông núi hùng vĩ và thơ mộng.
c)
Cảm nhận về vẻ đẹp tâm hồn của ông lái đò sông Đà:
-
Ông lái đò là đại diện, một biểu tượng của nhân dân (không tên, tuổi, quê
quán). Đó là một người lao động rất đỗi bình thường hoạt động trong một môi trường
lao động khắc nghiệt, dữ dội.
-
Am hiểu đối tượng mà mình đang chinh phục.
-
Mưu trí và dũng cảm để vượt qua những thử thách khắc nghiệt trong cuộc sống lao
động
hàng ngày. Ông
lái đò mang những phẩm chất cao đẹp của người lao động thời hiện đại mới: giản
dị mà không kém phần hùng tráng, khỏe khoắn, cũng đầy mưu trí. Đó là những con người
tự do, làm chủ thiên nhiên, làm chủ cuộc đời.
d)
Khái quát chung: vài nét đặc sắc
trong nghệ thuật xây dựng nhân vật của Nguyễn Tuân: đặt nhân vật vào tình huống
đầy cam go, thử thách để nhân vật bộc lộ tình cách phẩm chất; phối hợp những thủ
pháp tiêu biểu của các ngành nghệ thuật khác để miêu tả và kể chuyện.
Đề
bài 2:
a)
Giới thiệu tác giả Tô Hoài.
- Tô Hoài là nhà văn hiện
thực trước cách mạng, ông được bạn đọc biết đến với các tác phẩm viết cho thiếu
nhi như Dế Mèn phiêu lưu kí, o chuột... Sau cách mạng, nhà văn chủ yếu hoạt động
ở lĩnh vực báo chí, nhưng vẫn có một số thành tựu quan trọng trong sáng tác văn
học, nhất là về đề tài miền núi.
-
Truyện Vợ chồng A Phủ in trong tập Truyện Tây Bắc đã dựng lại một cách chân thực
và sinh động bức tranh về cuộc sống, con người Tây Bắc với những sắc thái riêng
của vùng đất này.
b)
Phân tích vẻ đẹp của đoạn văn.
*
Vẻ đẹp nội dung.
-
Cảnh xuân sớm tràn đầy màu sắc, âm thanh làm say lòng người.
+
Xuân về, thiên nhiên trở nên tươi đẹp, để lại niềm bâng khuâng khó tả trong
lòng người.
+
Chỉ đôi nét phác họa nhà văn đã chuyển được hồn cảnh xuân Tây Bắc.
+
Tả cảnh nhưng vẫn thấp thoáng hình ảnh con người với niềm vui, sự trẻ trung
đang tíu tít chuẩn bị xuân về.
-
Cảnh sinh hoạt mùa xuân thể hiện nét đẹp phong tục, văn hóa của dân tộc Mèo.
+
Theo phong tục miền núi, mỗi dịp xuân về là lúc nam nữ thanh niên vui chơi
+
Đêm tình mùa xuân, bao chàng trai gửi trong tiếng sáo lời tỏ tình say đắm.
- Tâm hồn Mị bắt đầu hồi
sinh bằng tiếng sáo và tiếng hát. Cảnh khơi dậy ngọn lửa thanh xuân, hình bóng
cô gái khao khát sống ngày nào.
* Vẻ
đẹp nghệ thuật.
-
Điểm nhìn trần thuật: xa đến gần, cao xuống thấp, ngoài vào trong.
-
Lời văn trần thuật: lời kể tự nhiên, giàu sắc thái trữ tình nhờ kết hợp kể và tả,
văn xuôi kết hợp với thơ. Văn giàu hình ảnh, câu dài - ngắn có tiết tấu và ngữ
điệu linh hoạt.
-
Giọng điệu tha thiết, bồi hồi.
c)
Đánh giá chung.
-
Với tài năng nghệ thuật, tâm hồn nhạy cảm, vốn sống về miền núi, Tô Hoài đã viết
những trang văn tuyệt đẹp vừa tạo vẻ đẹp trữ tình, vừa soi chiếu thế giới tâm hồn
nhân vật. Tô Hoài rất ý thức xây dựng hiệu quả thẩm mĩ của những gam điệu cảnh
sắc thiên nhiên này.
-
Đoạn văn phản ánh sinh động cảnh sắc thiên nhiên, cuộc sống sinh hoạt và tính
cách, tâm hồn người miền núi góp phần thể hiện chủ đề tác phẩm.