-->

CHÍNH PHỦ ĐIỆN TỬ Ở VIỆT NAM


CHÍNH PHỦ ĐIỆN TỬ Ở VIỆT NAM
Chính phủ điện tử là một thuật ngữ còn khá mới mẻ với Việt Nam. Gần đây chúng ta bắt đầu nghe nói nhiều tới Chính phủ điện tử, nhưng hầu như chỉ có một số các viên chức Chính phủ là có thể biết tới khái niệm Chính phủ điện tử. Vậy vấn đề ở đây là Việt Nam đã có Chính phủ điện tử hay chưa? Để trả lời được câu hỏi này, trước hết chúng ta hãy xem xét một số tiền đề phục vụ việc phát triển Chính phủ điện tử ở Việt Nam sau:
7.1. ĐÁNH GIÁ CÁC TIỀN ĐỀ CHO PHÁT TRIỂN CHÍNH PHỦ ĐIỆN TỬ Ở VIỆT NAM
7.1.1. Cơ sở hạ tầng công nghệ thông tin và viễn thông
7.1.1.1. Cơ sở hạ tầng viễn thông
Bộ Thông tin và Truyền thông đã thực thi chính sách ủng hộ môi trường cạnh tranh, tạo điều kiện cho tất cả các ngành kinh tế tham gia vào dịch vụ Internet và viễn thông. Kết quả là thị trường có rất nhiều nhà cung cấp (14 nhà cung cấp dịch vụ viễn thông theo số liệu của Bộ Thông tin và Truyền thông tính đến tháng 10/2009) được cấp phép cung cấp các dịch vụ viễn thông.
Theo con số của Trung tâm Internet Việt Nam, tính đến tháng 7/2009, cả nước đã có trên 21 triệu người sử dụng Internet, chiếm trên 25% tổng dân số. Bản báo cáo mới nhất của Liên minh Viễn thông quốc tế cũng cho biết, Việt Nam là một trong những nước có tốc độ phát triển Internet nhanh nhất thế giới. Với tỷ lệ 1/5 dân số sư dụng Internet, Việt Nam đã nằm trong nhóm các quốc gia có mức thu nhập trung bình.
Bên cạnh con số gần 2,2 triệu thuê bao băng thông rộng của cả nước, hiện có trên 90% doanh nghiệp tại Việt Nam đã kết nối Internet và có sử dụng dịch vụ băng thông rộng, nhu cầu sử dụng máy tính cá nhân cũng ngày một tăng mạnh.
Ở các thành phố lớn, cuộc chiến giữa các ISP đang thực sự rất khốc liệt. Hiện có 85 nhà cung cấp dịch vụ Internet trên cả nước. Tất cả các ISP đều hướng sự tập trung của mình đến thị trường này. Trong thời điểm hiện tại, khi Internet sắp bị bão hoà ở thị trường này, nhất là Hà Nội và TP. Hồ Chí Minh, các ISP bắt đầu đẩy mạnh việc cạnh tranh bằng tốc độ đường truyền, giá cước rẻ hơn, nhiều khuyến mại hơn. Bên cạnh duy trì đường ADSL bình thường, các ISP đã bắt đầu tập trung cho phân khúc dịch vụ Leased line, hướng đến phục vụ đối tượng là các cơ quan, doanh nghiệp cần đường truyền Internet băng thông rộng, tốc độ cao. Đặc biệt, khi mà nhu cầu sử dụng của người dùng ngày càng đa dạng và cao cấp, các ISP bắt đầu đẩy mạnh cung cấp các dịch vụ ứng dụng Internet cho các thuê bao của mình như thoại Internet, truyền hình trực tuyến... coi đây là vũ khí cạnh tranh lợi hại.
Như vậy, bên cạnh cuộc chiến về đường truyền, các ISP đang bước vào một cuộc chiến mới: cạnh tranh dịch vụ, giải pháp trên mạng Internet, tất cả đều hướng đến mục tiêu khách hàng. Điều này sẽ thực sự mang lại lợi ích cho người dùng và tác động tích cực đến sự phát triển của Internet Việt Nam.
Đối với thị trường nông thôn, ngoài VDC, các ISP khác vốn chỉ tập trung khai thác tại thị trường thành phố nay đã bắt đầu để mắt đến thị trường này, coi đây là một trong những thị trường tiềm năng. Trên thực tế, khi mà Internet đã phủ khắp các thành phố lớn thì việc các ISP chuyển hướng xuống thị trường nông thôn là điều tất yếu.
Ở nông thôn, thậm chí là vùng sâu, vùng xa các nhà mạng như VDC đã có mặt từ rất lâu. Internet cũng đã xuất hiện ở những nơi khó khăn nhất nhưng nhà cung cấp vẫn chưa tính đến lợi nhuận, chưa thực sự nghĩ đến yếu tố kinh doanh. Đó vẫn chỉ là những dịch vụ viễn thông công ích, mang lại giá trị thương hiệu nhiều hơn là kinh tế. Giờ đây, mọi chuyện đã khác, khi các thuê bao Internet ở khu vực nông thôn không ngừng tăng, bài toán kinh doanh đã có thể được tính đến.
Theo thống kê thị phần Internet của các ISP tại Việt Nam được đưa ra bởi Trung tâm Internet Việt Nam VNNIC, với gần 1.4 triệu thuê bao ADSL, VDC/VNPT đang chiếm miếng bánh thị phần to nhất, gần 64%. Trong khi đó, tất cả các ISP còn lại đang chia nhau hơn 40% còn lại... VDC/VNPT còn đưa ra mục tiêu trong năm 2000 phải phát triển được 1,2 triệu thuê bao mới để đạt được 70% thị phần trong lĩnh vực này. Đây là một mục tiêu mà theo nhiều nhận định, VNPT hoàn toàn có thể làm được bởi họ hiện đang sở hữu trong tay quá nhiều lợi thế, trong đó đặc biệt là lợi thế về hạ tầng mạnh - cơ sở quan trọng để phát triển thuê bao mới.

7.1.1.2. Thị trường công nghệ thông tin Việt Nam
IDG dự báo, chỉ tiêu của thị trường CNTT Việt Nam sẽ đạt gần 2,2 tỷ USD trong năm nay và sẽ lên đến hơn 3,5 tỷ USD vào năm 2013, hứa hẹn là thị trường có mức tăng trưởng mạnh nhất trong khu vực trong 5 năm tới.
Năm 2008, Việt Nam, Phi-li-pin và In-đô-nê-xi-a là ba nước trong khu vực có tỷ lệ tăng trưởng chi tiêu CNTT trên 10%. Năm 2009, trong tình trạng suy thoái kinh tế toàn cầu, nhưng dự báo tăng trưởng của Việt Nam vẫn dương (hơn 1%).
IDG dự đoán, từ năm 2010, Việt Nam sẽ trở thành một thị trường có mức tăng trưởng mạnh nhất trong khu vực. Việc triển khai những dự án kinh tế FDI có vốn lớn, nhu cầu nâng cấp lên mạng 3G, đầu tư về hạ tầng cơ sở và sức mua từ khối tư nhân... sẽ là những động lực lớn cho thị trường.
Tuy nhiên, IDG cũng cảnh báo, ngành công nghiệp phần mềm (CNPM) nói chung và thị trường gia công phần Việt Nam nói riêng đang được kỳ vọng quá mức so với thực lực hiện nay.
Theo báo cáo từ Hiệp hội Doanh nghiệp Phần mềm Việt Nam (Vinasa), năm 2008, Việt Nam là một trong ba nước (cùng với Trung Quốc và Ấn Độ) tích cực tham gia gia công phần mềm cho thị trường Nhật Bản (ngành công nghiệp phần mềm quốc gia này đạt 170 tỷ USD). Tuy nhiên, thị phần của Việt Nam rất nhỏ, chỉ đạt 0,5%.
Một trong những nguyên nhân dẫn đến sự hạn chế cạnh tranh của các doanh nghiệp sản xuất, gia công phần mềm nội địa là do thiếu hẳn những đơn vị có trình độ cao, ngang tầm thế giới.
Cùng đó, trình độ ngoại ngữ hạn chế của các kỹ sư phần mềm nội địa cùng là một trở ngại. Mức đầu tư khiêm tốn dành cho công nghiệp phần mềm đã không tạo được động cơ phát triển lớn mạnh cho doanh nghiệp.
Hiện nay, những chính sách hỗ trợ công nghiệp phần mềm Việt Nam mới chỉ xoay quanh việc ưu đãi về đầu tư như giảm thuế, cho thuê mặt bằng giá rẻ... mà thiếu đi những chính sách chiến lược và có tầm ảnh hưởng lớn hơn.
7.1.2. Nguồn nhân lực cho việc triển khai Chính phủ điện tử
7.1.2.1. Đội ngũ cán bộ CNTT
Để triển khai Chính phủ điện tử, việc cần thiết nhất là phải có nguồn nhân lực dồi dào. Nguồn nhân lực ở đây được hiểu là đội ngũ cán bộ làm việc trong lĩnh vực công nghệ thông tin, đội ngũ cán bộ quản lý có nhận thức đầy đủ về công nghệ thông tin cũng như Chính phủ điện tử. Nguồn nhân lực mạnh mẽ là yếu tố quan trọng đảm bảo cho sự thành công của chiến lược xây dựng Chính phủ điện tử.
Theo số liệu thống kê của Vinasa, hiện tổng nhân lực làm công nghệ thông tin của Việt Nam khoảng 250.000 người (trong đó có khoảng 50.000 người trong lĩnh vực phần mềm và nội dung số). Ngoài ra, có khoảng 50.000 người Việt Nam ở nước ngoài đang hoạt động trong lĩnh vực CNTT.
Việc phát triển nhân lực CNTT hiện nay chưa đáp ứng được với yêu cầu cả về số lượng và chất lượng so với nhu cầu phát triển của ngành CNTT và đòi hỏi của xã hội. Điều này xuất phát do thực tế đào tạo và nhu cầu sử dụng nhân lực còn tồn tại khoảng cách lớn. Đây cũng là nhận định chung của các doanh nghiệp sử dụng nguồn nhân lực CNTT.
Những năm trở lại đây, hệ thống trường đào tạo về CNTT đã tăng lên đáng kể. Hầu hết các trường đại học, cao đẳng lớn trên cả nước đã có chuyên ngành đào tạo về CNTT. Một số lượng lớn các trung tâm, đào tạo CNTT phát triển theo hướng dịch vụ đã đóng góp một phần lớn cho sự tăng trưởng nhân lực CNTT hàng năm.
Tuy nhiên, nguồn nhân lực CNTT vẫn bị thiếu hụt trầm trọng, nhất là nhân lực chất lượng cao có khả năng lập trình tốt. Đây có thể được coi là hệ quả của việc đào tạo còn nhiều bất cập so với nhu cầu thực tế sử dụng.
Hiện nay, số lượng sản phẩm trực tiếp trong ngành CNTT không lớn nhưng chủ yếu là các sản phẩm gia công (outsourcing) cho nước ngoài. Yếu tố này bắt nguồn từ việc thiếu nguồn nhân lực CNTT chất lượng cao, đặc biệt là nhân lực trong lĩnh vực lập trình. Đa số các lập trình viên không thành thạo những ngôn ngữ lập trình cụ thể nên khó khăn nhanh chóng việc bắt nhịp với công việc.
Trước những tư tưởng trái chiều hiện nay, việc đào tạo CNTT hiện nay chủ yếu theo 2 xu hướng chính. Cách đào tạo trong nước theo những quy chuẩn chung, quá cứng nhắc. Sinh viên phải học quá nhiều môn hầu như không liên quan đến công việc thực tế. Việc đào tạo này làm lãng phí một thời gian rất lớn của sinh viên theo học các chương trình chính quy.
Một thực tế cần nhận định đúng là thời gian đào tạo nhân lực IT của các nước phát triển thường ngắn hơn của Việt Nam. Nhưng sau khi hoàn thành khóa học, kiến thức chuyên môn của họ rất tốt. Đó là nhờ việc sắp đặt chương trình học hợp lý và đòi hỏi học viên phải thực hiện nhiều bài tập như là những sản phẩm thực tế tại nhà. Thời gian thực hành và làm những sản phẩm cụ thể giúp học viên tiếp cận với công việc thực tế.
7.1.2.2. Nhận thức của người dân
Có thể nói nhận thức của người dân Việt Nam về Chính phủ điện tử rất kém. Hầu như mọi người đều không biết Chính phủ điện tử là gì, kể cả những sinh viên đại học chuyên ngành công nghệ thông tin hay kinh tế, chứ không nói gì đến những người dân bình thường, kể cả những người dân ở các thành phố lớn đến những người dân ở nông thôn. Từ tình trạng sử dụng dịch vụ Internet ta có thể thấy, mặc dù tỷ lệ người dân sử dụng Internet đã tăng lên, nhưng vẫn còn thấp so với các nước khác. Do vậy, khả năng tiếp cận các dịch vụ công của Chính phủ là rất thấp. Đối tượng sử dụng chủ yếu là các doanh nghiệp, nhưng vẫn không phải là tất cả các doanh nghiệp Việt Nam đều sử dụng được các loại dịch vụ của Chính phủ điện tử. Còn người dân thì chỉ có một số ít sử dụng, đó là những người đã quen thuộc với Internet. Như vậy, muốn tăng khả năng sử dụng các dịch vụ công của Chính phủ điện tử, điều cần thiết trước mắt là phải nâng cao nhận thức của người dân về vai trò của ứng dụng công nghệ thông tin trong đời sống.
Hiện nay, nhiều nhà lãnh đạo chưa thấy hết giá trị của công nghệ thông tin trong các công tác quản lý. Nhận thức của đại bộ phận cán bộ công chức chưa cao, chưa thấy sức mạnh và chưa biết khai thác công nghệ thông tin.
7.1.3. Cơ sở pháp lý
7.1.3.1. Luật Giao dịch điện tử
Luật Giao dịch điện tử số 51/2005/QH11 năm 2005 đã chính thức đặt nền tảng đầu tiên cho việc thiết lập một hệ thống văn bản pháp quy toàn diện về giao dịch điện tử tại Việt Nam. Sau khi luật được ban hành, trong hai năm 2006 và 2007 hàng loạt văn bản dưới luật đã ra đời nhằm điều chỉnh chi tiết việc triển khai giao dịch điện tử trong các lĩnh vực của đời sống xã hội.
Cùng với một số văn bản được ban hành vào năm 2005 trở về trước, những văn bản ra đời trong hai năm gần đây đã tạo nên một khung pháp lý tương đối toàn diện cho giao dịch điện tử nói chung và thương mại điện tử nói riêng tại Việt Nam, đặc biệt là 04 Chỉ thị hướng dẫn Luật Giao dịch điện tử và 03 Chỉ thị hướng dẫn Luật Công nghệ thông tin. Nếu trước năm 2005, phần lớn văn bản được ban hành chỉ liên quan đến những vấn đề kỹ thuật công nghệ thông tin, thì văn bản ban hành sau Luật Giao dịch điện tử đã mở rộng diện điều chỉnh đến những ứng dụng cụ thể như thương mại, hải quan, hành chính nhà nước, tài chính,... Đây là những ứng dụng nền tảng của xã hội và là tiền đề cho việc triển khai các quy trình thương mại điện tử hoàn chỉnh ở cấp độ doanh nghiệp trong thời gian tới.
Ngoài tác động trực tiếp đưa đến sự ra đời các văn bản hướng dẫn cho những vấn đề cụ thể trong triển khai ứng dụng giao dịch điện tử, tác động sâu xa hơn của Luật Giao dịch điện tử là đà đưa ra khái niệm “thông điệp dữ liệu” và “chứng từ điện tử” vào những bộ luật cơ bản của hệ thống pháp luật hiện hành. Bộ luật Dân sự sửa đổi và Luật Thương mại sửa đổi, được biên soạn song song với Luật Giao dịch điện tử, đều bổ sung quy định thừa nhận giá trị pháp lý của thông điệp dữ liệu trong các giao dịch dân sự và thương mại.
* Nghị định số 57/2006/ND-CP về thương mại điện tử.
Nghị định về thương mại điện tử là nghị định đầu tiên hướng dẫn Luật Giao dịch điện tử, được ban hành vào ngày 09/6/2006. Với việc thừa nhận chứng từ điện tử có giá trị pháp lý tương đương chứng từ truyền thống trong mọi hoạt động thương mại từ chào hàng, chấp nhận chào hàng, giao kết hợp đồng cho đến thực hiện hợp đồng, Nghị định này đã tạo hành lang pháp lý để các doanh nghiệp yên tâm tiến hành giao dịch thương mại điện tử, bảo vệ quyền lợi và lợi ích hợp pháp của các bên tham gia, đồng thời cũng là căn cứ pháp lý để xét xử khi có tranh chấp liên quan đến hoạt động thương mại điện tử.
Trong năm 2007 các cơ quan quản lý nhà nước đã tiến hành soạn thảo hai thông tư hướng dẫn Nghị định thương mại điện tử. Đó là Thông tư của Bộ Công thương về giao kết hợp đồng trên Website thương mại điện tử và Thông tư liên tịch Bộ Công thương - Bộ Y tế hướng dẫn việc bán thuốc qua các phương tiện điện tử. Đến cuối năm 2007, hai thông tư này đã cơ bản hoàn thành về mặt nội dung và được đưa ra xin ý kiến rộng rãi của doanh nghiệp trước khi chính thức ban hành.
Thông tư hướng dẫn Nghị định số 57/2006/NĐ-CP về thương mại điện tử về giao kết hợp đồng trên Website thương mại điện tử được xây dựng trong bối cảnh số lượng Website thương mại điện tử đang tăng nhanh chóng tại Việt Nam. Tuy nhiên, hệ thống pháp luật hiện vẫn chưa điều chỉnh về quy tắc giao dịch cũng như mô hình hoạt động của các Website thương mại điện tử. Mọi giao dịch được tiến hành một cách tự phát và không có cơ sở pháp lý để giải quyết những tranh chấp phát sinh. Vì vậy, thông tư được xây dựng nhằm thiết lập những nguyên tắc và chuẩn mực chung cho các Website thương mại điện tử, nâng cao tính minh bạch của môi trường giao dịch, đồng thời giúp bảo vệ và cân bằng lợi ích của các bên tham gia.
Nội dung chính của Thông tư gồm những quy định về quy trình giao kết hợp đồng trên Website thương mại điện tử, thời điểm giao kết và giá trị pháp lý của hợp đồng giao kết bằng chức năng đặt hàng trực tuyến; nguyên tắc chung và những quy định cụ thể về nâng cấp thông tin liên quan đến các điều khoản hợp đồng. Thông tư cũng quy định chi tiết các cơ chế bảo vệ quyền lợi khách hàng trên Website thương mại điện tử như cơ chế rà soát và xác nhận điều khoản hợp đồng, thủ tục chấm dứt hợp đồng, giải quyết tranh chấp và nghĩa vụ bảo vệ thông tin cá nhân khách hàng trên Website thương mại điện tử.
Văn bản thứ hai hướng dẫn Nghị định số 57/2006/NĐ-CP về thương mại điện tử được xây dựng năm 2007 là Thông tư liên tịch Bộ Công Thương và Bộ Y tế hướng dẫn việc bán buôn thuốc qua các phương tiện điện tử. Thuốc là mặt hàng thích hợp cho mua bán trực tuyến vì có giá trị cao, khối lượng nhỏ. Việc bán thuốc và công khai giá thuốc trên mạng Internet sẽ giúp người dân cũng như doanh nghiệp dễ dàng tiếp cận các nguồn thuốc khác nhau, góp phần bình ổn giá thuốc trên thị trường. Mặt khác, thuốc chữa bệnh là mặt hàng kinh doanh đặc biệt, trực tiếp ảnh hưởng đến sức khỏe và tính mạng con người nên cũng cần có những quy định riêng, tránh việc lợi dụng bán thuốc qua mạng để có hành vi gian lận, lừa dối khách hàng. Cho tới nay đã có một số doanh nghiệp đầu tư thiết lập Website bán thuốc qua mạng. Tuy nhiên, do chưa có cơ sở pháp lý để điều chỉnh hoạt động bán thuốc qua mạng nên những doanh nghiệp này mặc dù đã thiết lập Website vẫn chưa thể tiến hành kinh doanh trong thực tế.
Nghị định số 79/2007/NĐ-CP ngày 09/8/2006 của Chính phủ quy định chi tiết thi hành một số điều của Luật Dược cũng đã đề cập đến việc bán thuốc qua mạng. Khoản 4c Điều 43 của Nghị định quy định rõ: “Bộ Thương mại phối hợp với Bộ Y tế xây dựng, trình cơ quan có thẩm quyền ban hành hoặc ban hành theo thẩm quyền và triển khai thực hiện các quy định pháp luật về thương mại điện tử trong lĩnh vực kinh doanh thuốc”. Trên cơ sở đó, Thông tư liên tịch hướng dẫn việc bán buôn thuốc qua các phương tiện điện tử được xây dựng với mục tiêu thiết lập hành lang pháp lý cho hoạt động này trong thực tế. Do đặc thù của mặt hàng thuốc là sản phẩm ảnh hưởng trực tiếp đến tính mạng con người trong khi năng lực quản lý cũng như trình độ người tiêu dùng chưa đủ đáp ứng các điều kiện để tiến hành giao dịch trên Internet, nội dung của Thông tư chỉ tập trung điều chỉnh hoạt động bán buôn, chưa cho phép bán lẻ thuốc qua các phương tiện điện tử.
Nghị định số 26/2007/ND-CP về quy định chi tiết thi hành Luật Giao dịch điện tử về chữ ký số và dịch vụ chứng thực chữ ký số.
Nghị định số 26/2007/NĐ-CT được ban hành ngày 15/02/2007. Nghị định này quy định về chữ ký số và các nội dung cần thiết liên quan đến sử dụng chữ ký số, bao gồm chứng thực số và việc quản lý, cung cấp và sử dụng dịch vụ chứng thực chữ ký số. Đây là những quy định nền tảng để thiết lập một cơ chế đảm bảo an ninh, an toàn cũng như độ tin cậy của các giao dịch điện tử, thúc đẩy thương mại điện tử phát triển mạnh mẽ hơn.
Chữ ký số là dạng chữ ký điện tử cho phép xác nhận sự chấp thuận của người ký đối với nội dung thông điệp, đồng thời chứng thực sự toàn vẹn của thông điệp dữ liệu từ thời điểm được ký.
Điều 8 Nghị định về chữ ký số và dịch vụ chứng thực chữ ký số đã chính thức thừa nhận giá trị pháp lý của chữ ký số trong các giao dịch điện tử: “Trong trường hợp pháp luật quy định văn bản cần có chữ ký thì yêu cầu đối với một thông điệp dữ liệu được xem là đáp ứng nếu thông điệp dữ liệu đó được ký bằng chữ ký số”.
Với chủ trương của Ban soạn thảo xây dựng Nghị định thật chi tiết có thể đưa vào triển khai trong thực tế mà không cần các văn bản hướng dẫn thi hành, Nghị định này đi sâu vào những vấn đề mang tính kỹ thuật về quản lý và cung cấp dịch vụ chứng thực chữ ký số. Các quy định được chi tiết hóa trong 72 điều, chia thành 11 chương.
- Chương 1: Những quy định chung: quy định phạm vi điều chỉnh, đối tượng áp dụng, các chính sách phát triển dịch vụ chứng thực chữ ký số, trách nhiệm quản lý nhà nước và những hành vi bị nghiêm cấm liên quan đến chữ ký số và dịch vụ chứng thực chữ ký số.
- Chương 2: Chữ ký số và chứng thư số: quy định về giá trị pháp lý của chữ ký số; nội dung của chứng thư số; một số vấn đề liên quan đến chữ ký số và chứng thư số của cơ quan, tổ chức; giá trị pháp lý của chữ ký số và chứng thư số nước ngoài.
- Chương 3: Điều kiện hoạt động của tổ chức cung cấp dịch vụ chứng thực chữ ký số công cộng: quy định về điều kiện, quy trình thủ tục cấp phép, gia hạn và thu hồi giấy phép của các tổ chức cung cấp dịch vụ chứng thực chữ ký số công cộng.
- Chương 4: Hoạt động cung cấp dịch vụ của tổ chức cung cấp dịch vụ chứng thực chữ ký số công cộng: quy định việc cấp, gia hạn, tạm dừng, phục hồi và thu hồi chứng thư số; tạo cặp khóa và các dịch vụ có liên quan của tổ chức cung cấp dịch vụ chứng thực chữ ký số công cộng.
- Chương 5: Quyền và nghĩa vụ của các bên tham gia cung cấp và sử dụng dịch vụ chứng thực chữ ký số công cộng: quy định quyền và nghĩa vụ của tổ chức cung cấp dịch vụ chứng thực chữ ký số công cộng như quyền và nghĩa vụ của thuê bao.
- Chương 6: Tổ chức và cung cấp dịch vụ chứng thực chữ ký số chuyên dùng: quy định điều kiện, thủ tục đăng ký hoạt động, quyền và nghĩa vụ của tổ chức cung cấp dịch vụ chứng thực chữ ký số chuyên dùng; điều kiện, thủ tục cấp giấy chứng nhận đủ điều kiện hoạt động cho những tổ chức cung cấp dịch vụ chứng thực chữ ký số chuyên dùng muốn đảm bảo giá trị pháp lý của chữ ký số cho các thuê bao của mình như đối với chữ ký số của thuê bao của tổ chức cung cấp dịch vụ chứng thực chữ ký số công cộng.
- Chương 7: Công nhận chữ ký số, chứng thư số và hoạt động cung cấp dịch vụ tổ chức cung cấp dịch vụ chứng thực chữ ký số nước ngoài: quy định về diều kiện, thủ tục công nhận chữ ký số, chứng thư số nước ngoài và hoạt động cung cấp dịch vụ của tổ chức cung cấp dịch vụ chứng thực chữ ký số nước ngoài.
- Chương 8: Tổ chức cung cấp dịch vụ chứng thực chữ ký số quốc gia: quy định về điều kiện hoạt động, quyền và nghĩa vụ của tổ chức cung cấp dịch vụ chứng thực chữ ký số quốc gia.
- Chương 9-11: Quy định về việc giải quyết tranh chấp, khiếu nại và bồi thường thiệt hại; thanh tra, kiểm tra và xử lý vi phạm và các điều khoản thi hành.
Nghị định số 27/2007/NĐ-CP về giao dịch điện tử trong hoạt động tài chính.
Ngày 23/02/2007, Chính phủ ban hành Nghị định số 27/2007/NĐ-CP quy định chi tiết thi hành Luật Giao dịch điện tử trong hoạt động tài chính. Nghị định này ra đời nhằm đảm bảo các điều kiện cần thiết để hình thành và phát triển một môi trường giao dịch điện tử an toàn, hiệu quả, giúp Chính phủ quản lý được giao dịch điện tử trong hoạt động nghiệp vụ tài chính, giảm thiểu hậu quả xấu phát sinh trong giao dịch điện tử như trốn thuế, gian lận khi lập hóa đơn chứng từ... đồng thời tạo điều kiện thuận lợi cho tiến trình cải cách của ngành Tài chính trên nền tảng ứng dụng công nghệ thông tin.
Nghị định gồm 25 điều chia thành 05 chương và điều chỉnh hai nội dung chính sau:
- Chứng từ điện tử (Chương 2): Quy định giá trị pháp lý của chứng từ điện tử; việc ký, mã hóa, chuyển đổi, hủy, tiêu hủy, niêm phong, tạm giữ hoặc tịch thu chứng từ điện tử, việc sử dụng hệ thống thông tin tự động để gửi, nhận và xử lý chứng từ điện tử.
- Giao dịch điện tử trong hoạt động tài chính (Chương 3): quy định về trách nhiệm, quyền hạn của tổ chức, cá nhân khi tham gia giao dịch điện tử trong hoạt động tài chính; tổ chức cung cấp dịch vụ giá trị gia tăng; dịch vụ chứng thực chữ ký số trong hoạt động tài chính; bảo đảm môi trường thực hiện giao dịch điện tử trong ngành Tài chính và giữa tổ chức, cá nhân với ngành tài chính; quản lý nhà nước về giao dịch điện tử trong hoạt động tài chính.
Lĩnh vực tài chính là một lĩnh vực rộng, liên quan đến các mặt của đời sống kinh tế - xã hội và bao gồm nhiều hoạt động nghiệp vụ như nghiệp vụ tài chính - ngân sách, thuế, hải quan, kho bạc, kế toán, kiểm toán... Mỗi nghiệp vụ này có những quy trình mang tính đặc thù và do đó đặt ra yêu cầu khác nhau cho quá trình triển khai ứng dụng giao dịch điện tử. Trong bối cảnh đó, Nghị định về giao dịch điện tử trong hoạt động tài chính mới chỉ là những quy định khung, tạo cơ sở pháp lý cho việc xây dựng các thông tư hướng dẫn cho từng lĩnh vực cụ thể sau này. Bộ Tài chính hiện đang dự thảo bốn thông tư hướng dẫn Nghị định trong các lĩnh vực nghiệp vụ hải quan, kho bạc nhà nước, thuế, chứng khoán và một thông tư hướng dẫn về quy định kỹ thuật cho giao dịch điện tử trong hoạt động nghiệp vụ tài chính.
Thông tư hướng dẫn giao dịch điện tử trên thị trường chứng khoán trong quá trình dự thảo.
Ngày 20/12/2007, dự thảo thông tư hướng dẫn giao dịch điện tử trên thị trường chứng khoán do Ủy ban Chứng khoán nhà nước chủ trì soạn thảo được đưa ra lấy ý kiến lần đầu. Đối tượng tham gia đóng góp ý kiến là các công ty chứng khoán và là các thành viên thị trường chứng khoán.
Thông tư này quy định về “nguyên tắc, thủ tục tổ chức giao dịch điện tử trong hoạt động giao dịch chứng khoán trực tuyến, hoạt động trao đổi thông tin điện tử liên quan đến hoạt động chào bán chứng khoán ra công chúng, lưu ký chứng khoán, niêm yết chứng khoán, hoạt động quản lý công ty chứng khoán, công ty đầu tư chứng khoán, hoạt động công bố thông tin và các hoạt động khác liên quan đến thị trường chứng khoán theo quy định tại Luật Chứng khoán”.
Nội dung chính của dự thảo thông tư xoay quanh các yêu cầu về dịch vụ và kỹ thuật đối với công ty chứng khoán khi tổ chức giao dịch chứng khoán trực tuyến, đồng thời quy định chi tiết thủ tục đăng ký cung cấp dịch vụ giao dịch chứng khoán trực tuyến.
Tuy nhiên, còn một số vấn đề khá then chốt đối với giao dịch điện tử trong hoạt động chứng khoán như bảo mật thông tin, biện pháp xác thực người giao dịch.... chưa được đề cập đến trong dự thảo thông tư. Theo ý kiến của đại diện các công ty chứng khoán, dự thảo cần có thêm quy định chi tiết về tiêu chuẩn giao dịch trực tuyến, tiêu chuẩn mã hóa, tiêu chuẩn kết nối của các tổ chức cung cấp dịch vụ để đảm bảo hoạt động thông suốt của thị trường giao dịch chứng khoán trực tuyến trong tương lai.
Nghị định số 35/2007/NĐ-CP về giao dịch điện tử trong hoạt động ngân hàng.
Ngân hàng là một trong những lĩnh vực ứng dụng công nghệ thông tin sớm nhất ở Việt Nam. Giao dịch điện tử đã được triển khai trong hoạt động nghiệp vụ ngân hàng từ cuối những năm 1990. Quyết định số 196/TTg ngày 01/4/1997 và Quyết định số 44/2002/TTg ngày 21/3/2002 của Thủ tướng Chính phủ cho phép sử dụng chứng từ điện tử và chữ ký điện tử trong nghiệp vụ kế toán và thanh toán ngân hàng có thể coi là những văn bản pháp lý đầu tiên liên quan đến giao dịch điện tử tại Việt Nam. Tuy nhiên, chỉ với sự ra đời Nghị định về giao dịch điện tử trong hoạt động ngân hàng, khung pháp lý cho lĩnh vực này mới cơ bản được hoàn thành, đặt nền móng cho quá trình mở rộng triển khai giao dịch điện tử trong hoạt động ngân hàng và phát triển dịch vụ ngân hàng điện tử, hỗ trợ hiệu quả các giải pháp thanh toán thương mại điện tử tại Việt Nam.
Nghị định số 35/2007/NĐ-CP ngày 08/3/2007 về giao dịch điện tử trong hoạt động ngân hàng là nghị định thứ ba liên tiếp được ban hành trong năm 2007 nhằm hướng dẫn Luật Giao dịch điện tử. Nghị định này tập trung hướng dẫn việc áp dụng Luật Giao dịch điện tử cho các hoạt động ngân hàng cụ thể, bảo đảm những điều kiện cần thiết về môi trường pháp lý để củng cố, phát triển các giao dịch điện tử an toàn và hiệu quả đối với hệ thống ngân hàng.
Nghị định gồm 05 chương, 29 điều, với hai nội dung điều chỉnh chính như sau:
- Giao dịch điện tử trong hoạt động ngân hàng (Chương 2): xác định phạm vi các giao dịch điện tử trong hoạt động ngân hàng; quy định về điều kiện giao dịch điện tử; quy định các chữ ký điện tử sử dụng trong hoạt động ngân hàng và tổ chức cung cấp dịch vụ chứng thực chữ ký điện tử.
- Chứng từ điện tử trong hoạt động ngân hàng (Chương 3): hướng dẫn bổ sung, làm rõ những quy định về nội dung, tính hợp pháp, hợp lệ, định dạng của chứng từ điện tử; nguyên tắc lập, kiểm soát, xử lý, sử dụng, chuyển đổi, lưu trữ, bảo quản chứng từ điện tử trong giao dịch điện tử ngân hàng; việc ký và giá trị của chữ ký điện tử trên chứng từ điện tử.
7.1.3.2. Một số văn bản pháp luật khác có liên quan
Kế hoạch tổng thể phát triển thương mại điện tử giai đoạn 2006-2010.
Năm 2005, song song với Luật Giao dịch điện tử, Kế hoạch tổng thể phát triển thương mại điện tử Việt Nam giai đoạn 2006 - 2010 cũng được ban hành tại Quyết định số 222/2005/QĐ-TTg ngày 15/9/2005 của Thủ tướng Chính phủ (Quyết định số 222). Nếu Luật Giao dịch điện tử là khung pháp lý cơ bản và đầu tiên cho toàn bộ các giao dịch điện tử trong xã hội, thì Kế hoạch tổng thể phát triển thương mại điện tử là chính sách vĩ mô đầu tiên của Nhà nước với những định hướng, giải pháp toàn diện và chương trình hành động cụ thể nhằm thúc đẩy sự phát triển của thương mại điện tử trên phạm vi toàn quốc. Kế hoạch này là nền tảng cho việc triển khai rất nhiều hoạt động liên quan tới thương mại điện tử trong giai đoạn 05 năm, đồng thời góp phần đưa Luật Giao dịch điện tử vào cuộc sống thông qua những chính sách, giải pháp cụ thể trong lĩnh vực kinh tế và thương mại.
7.1.3.3. Luật Công nghệ thông tin
Cùng với Luật Giao dịch điện tử, Luật Công nghệ thông tin năm 2007 đã thiết lập nền tảng pháp lý cơ bản cho việc đẩy mạnh giao dịch điện tử nói chung và thương mại điện tử nói riêng.
Luật Công nghệ thông tin được quốc hội khóa XI, kỳ họp thứ 9 thông qua ngày 29/6/2007.
Chương II (ứng dụng công nghệ thông tin) và Chương IV (Biện pháp bảo đảm ứng dụng và phát triển công nghệ thông tin) của Luật này bao gồm nhiều quy định liên quan trực tiếp đến ứng dụng công nghệ thông tin trong hoạt động thương mại, hoạt động của các cơ quan nhà nước và trong một số lĩnh vực khác của đời sống xã hội.
Các nghị định hướng dẫn Luật Công nghệ thông tin năm 2007.
Ngày 10/4/2007, Chính phủ ban hành Nghị định số 64/2007/ND-CP về ứng dụng công nghệ thông tin trong hoạt động của Nhà nước. Đây là văn bản hướng dẫn đồng thời Luật Giao dịch điện tử và Luật Công nghệ thông tin với phạm vi rất rộng, bao gồm xây dựng cơ sở hạ tầng công nghệ thông tin, đầu tư cho ứng dụng CNTT và hoạt động của cơ quan nhà nước trên môi trường mạng.
Nghị định về ứng dụng công nghệ thông tin trong hoạt động của cơ quan nhà nước đã đưa ra những quy định mang tính nguyên tắc nhằm đẩy mạnh giao dịch điện tử trong khu vực hành chính công. Các quy định về cung cấp, tiếp nhận thông tin trên môi trường mạng, kết nối và chia sẻ thông tin số, tăng cường sử dụng văn bản điện tử, bảo đảm truy nhập thông tin và khai thác dịch vụ hành chính công,... sẽ góp phần đẩy nhanh quá trình cải cách hành chính, minh bạch hóa môi trường giao dịch đẩy nhanh việc cung cấp trực tuyến các dịch vụ công và qua đó thúc đẩy sự phát triển thương mại điện tử.
Ngoài Nghị định số 64/2007/NĐ-CP ngày 10/4/2007 về ứng dụng công nghệ thông tin trong hoạt động của cơ quan nhà nước, hai nghị định khác hướng dẫn Luật Công nghệ thông tin cùng được ban hành năm 2007:
- Nghị định số 63/2007/NĐ-CP ngày 10/4/2007 quy định xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực công nghệ thông tin.
- Nghị định số 71/2007/ND-CP ngày 03/5/2007 quy định chi tiết và hướng dẫn thực hiện một số điều của Luật Công nghệ thông tin về công nghiệp công nghệ thông tin.
Các nghị định này tập trung điều chỉnh những vấn đề lớn về triển khai ứng dụng công nghệ thông tin như ứng dụng CNTT trong hoạt động của các cơ quan nhà nước, phát triển công nghiệp công nghệ thông tin và xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực công nghệ thông tin.
7.1.3.4. Một số vấn đề trong thực thi Luật Giao dịch điện tử và các văn bản pháp luật có liên quan
a) Giá trị pháp lý của chứng từ điện tử trong giao dịch thương mại
Một chu trình thương mại hoàn chỉnh luôn gắn liền với rất nhiều loại chứng từ, bao gồm những chứng từ liên quan đến việc giao kết hợp đồng như chào hàng, chấp nhận chào hàng, phục vụ hợp đồng, cho đến những chứng từ phát sinh trong quá trình thực hiện hợp đồng như chứng từ vận tải, chứng từ thanh toán,... Việc triển khai thương mại điện tử theo một chu trình trọn vẹn sẽ dẫn đến những yêu cầu mới về hình thức cũng như thay đổi lớn trong cách thức quản lý đối với hệ thống chứng từ thương mại này.
Tại Việt Nam hiện nay, cùng với sự phát triển của thương mại điện tử chứng từ điện tử đang trở nên khá phổ biến trong giao dịch giữa các đối tác kinh doanh, đặc biệt ở những bước tiến với việc giao kết hợp đồng, về mặt pháp lý Luật Giao dịch điện tử, Nghị định về thương mại điện tử và Nghị định về giao dịch điện tử trong hoạt động tài chính đã cung cấp đầy đủ cơ sở để doanh nghiệp có thể sử dụng chứng từ điện tử trong các giao dịch thương mại nói chung. Tuy nhiên, Luật cũng quy định rõ những tình huống đòi hỏi độ xác thực cao của thông tin chứa trong chứng từ điện tử, các bên cần đặc biệt lưu ý đến những biện pháp kỹ thuật để đảm bảo giá trị pháp lý của chứng từ trong trường hợp xảy ra tranh chấp.
b) Quy định về kế toán, thuế với việc triển khai Luật Giao dịch điện tử
Khác với những chứng từ thương mại liên quan đến quá trình giao kết hợp đồng, chứng từ, hóa đơn tài chính không chỉ là căn cứ phân định trách nhiệm giữa các bên tham gia hợp đồng mà còn được sử dụng để xác định nghĩa vụ tài chính, thuế giữa các bên với cơ quan quản lý nhà nước. Do vậy, để có thể tiến hành một chu trình thương mại điện tử trọn vẹn đến khâu thanh toán, ngoài sự thống nhất ý chí giữa các bên tham gia giao dịch, còn cần những quy định cụ thể của cơ quan nhà nước về việc tiếp nhận và xử lý hóa đơn, chứng từ điện tử phát sinh từ giao dịch này. Thay vì các mẫu đơn in sẵn như hiện nay sẽ là hóa đơn tự in từ hệ thống quản lý nội bộ doanh nghiệp, hoặc các chứng từ điện tử được gửi, nhận và lưu trữ trong hệ thống thông tin của từng bên tham gia giao dịch. Để những chứng từ này có giá trị sử dụng thực tế đối với nghiệp vụ tài chính doanh nghiệp, thì ngoài sự thừa nhận chính thức của Nhà nước về giá trị pháp lý của chứng từ điện tử, còn cần sự thay đổi tương ứng trong quy định về hóa đơn chứng từ của hệ thống pháp luật tài chính hiện hành.
Hiện nay, hóa đơn vẫn được coi là chứng từ gốc cơ bản nhất để xác định các nghĩa vụ và quyền lợi về thuế của doanh nghiệp, để doanh nghiệp hạch toán chi phí và doanh thu, cũng như để xác nhận quyền sở hữu của người mua hàng. Do vậy, các hóa đơn lưu hành trong nội bộ nền kinh tế đều phải tuân thủ những quy định nghiêm ngặt của Bộ Tài chính về hình thức in ấn, nội dung cũng như con dấu. Chứng từ điện tử không đáp ứng đủ những điều kiện này sẽ không được coi là hợp lệ trong giao dịch giữa tổ chức với cơ quan thuế, mặc dù chúng có giá trị pháp lý như văn bản và như bản gốc theo quy định của pháp luật hiện hành. Đây là điểm vướng mắc lớn cho các doanh nghiệp muốn triển khai thương mại điện tử trên quy mô rộng mà trường hợp vé máy bay điện tử của Tổng Công ty Hàng không Việt Nam và Pacific Airlines là một ví dụ minh họa.
Dưới sức ép ngày càng tăng của môi trường kinh doanh vận tải hàng không, năm 2004 Hiệp hội hàng không quốc tế (IATA) đã ra Nghị quyết về việc các thành viên Hiệp hội áp dụng đồng nhất vé máy bay điện tử bắt đầu từ ngày 01/01/2008. Là một thành viên của tổ chức này, Vietnam Airlines đã tiến hành triển khai Dự án vé máy bay điện tử từ năm 2005 và đưa vào áp dụng thí điểm trong tháng 11/2006 với chặng đường Hà Nội - TP. HCM. Thời gian đầu, khách hàng vẫn phải đến các đại lý bán vé để thanh toán và nhận vé điện tử - thực chất là các chi tiết hành khách và chuyến bay được in ra một tờ giấy thông thường. Bắt đầu từ tháng 12/2007, Vietnam Airlines triển khai đại trà việc bán vé điện tử cho tất cả các tuyến bay nội địa và từ giữa năm 2008 sẽ thực hiện phân phối vé qua các kênh như Internet hoặc qua các hãng có hợp đồng xuất vé trên chuyến bay của Vietnam Airlines.
Pacific Airlines, hãng hàng không giá rẻ đầu tiên của Việt Nam, đã chuyển sang áp dụng hình thức bán vé điện tử trong toàn hệ thống bắt đầu từ ngày 13/02/2007. Toàn bộ hoạt động đặt chỗ, mua/bán vé, in vé, và thanh toán đều được tiến hành thông qua mạng Internet. Khác với hình thức bán vé truyền thống, trong đó cuống vé máy bay là chứng từ có độ đảm bảo cao do đáp ứng những yêu cầu đặc biệt là loại giấy, mẫu mã, hình thức in ấn, vé điện tử không có sự đảm bảo này để xác minh tính “bản gốc” của chứng từ. Do đó, nếu khách hàng cần chứng từ làm căn cứ kê khai và khấu trừ thuế về sau (trong trường hợp tiền mua vé được trích từ chi phí hoạt động của doanh nghiệp hoặc tổ chức) thì các hãng hàng không khi bán vé điện tử cho khách vẫn phải phát kèm theo phiếu thu. Yêu cầu này của Bộ Tài chính đã phần nào hạn chế tác dụng của vé điện tử là giảm chi phí quản lý đi kèm với giấy tờ, đồng thời gây phức tạp cho việc triển khai quy trình bán vé hoàn chỉnh qua mạng Internet.
Việc Tổng cục Thuế gần đây khuyến khích doanh nghiệp sử dụng hóa đơn tự in (với điều kiện có đăng ký mẫu hóa đơn và đáp ứng một số yêu cầu về thể thức hóa đơn) đã bước đầu tạo thuận lợi cho doanh nghiệp triển khai các quy trình giao dịch trên nền hệ thống thông tin quản trị doanh nghiệp với mức độ tự chủ cao. Tuy nhiên, yêu cầu về “hóa đơn chứng từ giấy” với chữ ký và con dấu theo cách hiểu truyền thống vẫn là một trở ngại lớn cho việc phát triển các giải pháp thương mại điện tử toàn diện trong doanh nghiệp. Trước thực tế này, Tổng cục Thuế đã lập “đề án cải cách công tác quản lý, sử dụng hóa đơn giai đoạn 2007 - 2012” nhằm điều chỉnh các quy định về chứng từ cho phù hợp với những hình thái kinh doanh mới trong thời kỳ hội nhập. Tuy nhiên, đây là một dự án dài hạn và cần được chuẩn bị công phu cũng như sự phối hợp của nhiều thành phần trong xã hội trước khi có thể đưa vào triển khai trên thực tế.
c) Vấn đề xác thực thông tin trong chứng từ điện tử
Chữ ký điện tử, hay vấn đề đảm bảo giá trị pháp lý của chứng từ điện tử, hiện là khúc mắc lớn nhất trong quá trình triển khai các giao dịch thương mại điện tử có giá trị cao hoặc giao dịch hành chính đòi hỏi con dấu và chữ ký. Về mặt pháp lý, Nghị định Chữ ký số và dịch vụ chứng thực chữ ký số đã đặt nền tảng cho việc ứng dụng loại chữ ký điện tử phổ biến hiện nay - chữ ký số. Tuy nhiên, đến cuối năm 2007 dịch vụ chữ ký số vẫn chưa được triển khai rộng rãi tại Việt Nam do còn nhiều những giải pháp công nghệ và cơ chế quản lý tương ứng để hiện thực hóa các quy định của Nghị định này.
Nghị định về chữ ký số và dịch vụ chứng thực chữ ký số tập trung giải quyết một số vấn đề có tính then chốt trong việc cung cấp, sử dụng dịch vụ chữ ký số như: hình thức quản lý các tổ chức cung cấp dịch vụ chứng thực chữ ký số, việc thành lập Tổ chức chứng thực chữ ký số quốc gia, và giá trị pháp lý của chữ ký số trong mối tương quan với chữ ký và con dấu truyền thống của cơ quan, tổ chức.
d) Chữ ký số của cơ quan, tổ chức
Trong môi trường truyền thống, văn bản của các cơ quan, tổ chức chỉ có giá trị pháp lý khi có chữ ký của người có thẩm quyền và con dấu của cơ quan, tổ chức đó. Vai trò của con dấu là chứng thực chữ ký trong văn bản đúng là của người có thẩm quyền của cơ quan hay tổ chức nói trên. Trong môi trường giao dịch điện tử, khái niệm con dấu không còn tồn tại và phương pháp tạo ra chữ ký số cùng khác hoàn toàn so với chữ ký tay truyền thống.
Về công nghệ, chữ ký số không phải do người ký tự tạo ra mà được tạo trên cơ sở kết hợp khóa bí mật của người ký và nội dung của thông điệp dữ liệu. Người ký là thuê bao của tổ chức chứng thực chữ ký số và được tổ chức chứng thực chữ ký số đó kiểm tra, xác minh, chứng thực là có thật thông qua việc cung cấp chứng thư số. Do đó, nếu tổ chức chứng thực chữ ký số là tin cậy và thông điệp dữ liệu có chữ ký số của một người có thẩm quyền của một cơ quan, tổ chức được cấp chứng thư số thì về mặt pháp lý, thông điệp dữ liệu đó hoàn toàn tương đương với văn bản đã được ký tay đóng dấu.
Nghị định về chữ ký số và dịch vụ chứng thực chữ ký số quy định mỗi chức danh có thẩm quyền trong cơ quan, tổ chức theo quy định của pháp luật có một chữ ký số và chữ ký số này tương đương với chữ ký tay của người đó và con dấu của cơ quan, tổ chức đó. Quy định này vừa tạo thuận lợi cho người sử dụng phát huy được ưu điểm của chữ ký số, vừa góp phần thực hiện mục tiêu đơn giản hóa các thủ tục hành chính của giao dịch điện tử.
e) Các tổ chức cung cấp dịch vụ chứng thực chữ ký số
Vấn đề tổ chức hệ thống chứng thực chữ ký số trong một quốc gia một cách khoa học cũng là hết sức quan trọng để tạo điều kiện cho người sử dụng có thể sử dụng dịch vụ một cách đơn giản, hiệu quả và kinh tế nhất. Hiện nay trên thế giới có hai mô hình tổ chức cho đơn vị cung cấp dịch vụ chứng thực chữ ký số quốc gia là mô hình tổ chức chứng thực cầu nối (Bridge CA) và mô hình tổ chức chứng thực gốc (Root CA).
Mô hình tổ chức chứng thực cầu nối là giải pháp tình thế, áp dụng ở các quốc gia đã có tổ chức cung cấp dịch vụ chứng thực chữ ký số hoạt động trước khi có luật (Nhật Bản, Trung Quốc, Hoa Kỳ,...). Trước khi có tổ chức chứng thực cầu nối, các tổ chức cung cấp dịch vụ chứng thực chữ ký số tự hoạt động mà  không theo một chính sách nào và tiêu chuẩn thống nhất nào. Vì vậy, người dùng chỉ giao dịch được với các thuê bao của cùng một nhà cung cấp dịch vụ chứng thực chữ ký số, và do đó phải sử dụng dịch vụ của nhiều tổ chức khác nhau cho những mục đích khác nhau, rất tốn kém và phức tạp. Tổ chức chứng thực cầu nối có chức năng hài hòa các chính sách và tiêu chuẩn kỹ thuật giữa các tổ chức cung cấp dịch vụ chứng thực chữ ký số, nhờ đó, thuê bao của các nhà cung cấp dịch vụ chứng thực chữ ký số khác nhau có thể giao dịch với nhau.
Hầu hết các quốc gia sau khi có luật mới có dịch vụ chứng thực chữ ký số đều áp dụng mô hình tổ chức chứng thực gốc. Đây là mô hình trong đó các tổ chức cung cấp dịch vụ chứng thực chữ ký số đều tuân theo những quy định chung về chính sách chứng thực và tiêu chuẩn chứng thực của quốc gia, được xác nhận bởi một tổ chức chứng thực gốc thông qua việc cấp chứng thư cho các tổ chức cung cấp dịch vụ chứng thực chữ ký số. Trong hệ thống này, vai trò của tổ chức chứng thực gốc là cực kỳ quan trọng vì đây là điểm mấu chốt đảm bảo độ tin cậy của toàn hệ thống.
Nghị định số 26/2007/NĐ-CP về chữ ký số và dịch vụ chứng thực chữ ký số của Việt Nam đã chọn mô hình tổ chức chứng thực gốc và quy định chức năng, điều kiện hoạt động của tổ chức cung cấp dịch vụ chứng thực chữ ký số gốc với tên gọi “Tổ chức cung cấp dịch vụ chứng thực chữ ký số quốc gia”, giao Bộ Bưu chính, Viễn thông (nay là Bộ Thông tin và Truyền thông) thành lập và duy trì hoạt động. Tuy nhiên, đến thời điểm cuối năm 2007, Tổ chức chứng thực chữ ký số quốc gia vẫn chưa đi vào hoạt động, đồng nghĩa với việc các nhà cung cấp dịch vụ chứng thực Chữ ký số vẫn chưa thể triển khai cung cấp dịch vụ này tại thị trường Việt Nam.
7.1.4. Hệ thống thanh toán điện tử tại Việt Nam
7.1.4.1. Sự phát triển của thị trường thanh toán thẻ
Thanh toán thẻ được coi là giải pháp đầu cho hệ thống thanh toán, điện tử tại Việt Nam. Ứng dụng công nghệ và đầu tư trang thiết bị hạ tầng cơ sở phục vụ cho thanh toán ngân hàng phát triển mạnh kể từ năm 2002. Trong đó, công nghệ thanh toán thẻ là hoạt động được ưu tiên triển khai. Sau 5 năm, các ngân hàng đã hình thành một mạng lưới giao dịch tự động ATM và đơn vị chấp nhận thẻ khá rộng, số lượng thẻ phát hành năm 2006 chỉ đạt 4 triệu thẻ thì đến năm 2007 con số này đã tăng gấp đôi (hơn 8 triệu thẻ), số lượng máy ATM cũng tăng mạnh từ 2.500 máy năm 2006 lên hơn 4.000 máy năm 2007.
Theo Quyết định số 32/2007/QĐ-NHNN này 03/7/2007 của Thống đốc Ngân hàng nhà nước Việt Nam, các tổ chức tín dụng có thể phát hành một loại thẻ thanh toán mới, đó là thẻ trả trước vô danh với mức 5 triệu đồng. Hình thức thẻ này ra đời với mục tiêu giảm lượng tiền mặt trong thanh toán. Hơn nữa, hai lợi ích cơ bản bao gồm tiết kiệm thời gian và chủ động trong chi tiêu cũng là ưu điểm của loại hình thanh toán nói trên. Thanh toán bằng thẻ trả trước vô danh đóng vai trò như một phương thức bổ sung cho hoạt động thanh toán điện tử mà hệ thống ngân hàng đang chú trọng đẩy mạnh.
7.1.4.2. Liên minh thẻ ngân hàng
Trong bối cảnh số lượng tài khoản cá nhân ngày một tăng, mạng lưới thanh toán, loại hình thẻ ngày một mở rộng theo nhu cầu của người tiêu dùng, vấn đề khó khăn chính là việc liên kết các hệ thống thanh toán của nhiều ngân hàng khác nhau nhằm cắt giảm chi phí và tăng tính tiện dụng cho khách hàng, đồng thời tăng hiệu quả hoạt động của ngành nói chung.
Hệ thống thanh toán điện tử của Việt Nam hiện nay đang tồn tại 4 liên minh thẻ. Đó là liên minh thẻ ngân hàng VCB, liên minh thẻ Việt Nam Bankcard (VNBC) của ngân hàng Đông Á, liên minh thẻ Banknetvn gồm 03 ngân hàng quốc doanh và một số ngân hàng cổ phần, và liên minh thẻ ANZ/Sacombank. Trên lý thuyết, thẻ của mỗi ngân hàng thành viên có thể thực hiện giao dịch trên máy ATM của các ngân hàng khác trong liên minh. Tuy nhiên, hiện nay từng ngân hàng thành viên lại phát triển các dịch vụ khác nhau, dẫn đến việc khách hàng của ngân hàng này vẫn chưa thể thực hiện thao tác chuyển khoản trên ATM của những ngân hàng khác trong cùng liên minh.
Nhóm liên minh thẻ do ngân hàng VCB khởi xướng đã thực hiện thành công việc kết nối thanh toán thẻ giữa 17 ngân hàng thành viên. Đây là nỗ lực rất lớn của những ngân hàng nói trên trong việc nâng cao giá trị gia tăng cho khách hàng thông qua tạo lập một mạng lưới thanh toán trên máy ATM.
Ngày 21/4/2007, hệ thống thanh toán thẻ Việt Nam được đánh dấu bằng việc kết nối thành công 03 ngân hàng bao gồm ngân hàng Công thương Việt Nam (Incombank), ngân hàng Đầu tư và Phát triển Việt Nam (BIDV) và ngân hàng TCMP Sài gòn Công thương (SaigonBank) thông qua dịch vụ kết nối chuyển mạch của Banknet.vn. Theo Banknet.vn, hệ thống kết nối chuyển mạch của Banknet.vn giúp chủ thể có thể thực hiện giao dịch tại gần 25 nghìn máy ATM trong hệ thống Banknet.vn, chiếm khoảng 60% tổng số ATM trên toàn quốc. Qua hai tháng vận hành chính thức, trên 83 ngàn giao dịch với tổng giá trị trên 23 tỷ đồng đã thực hiện qua hệ thống chuyển mạch 4 ngân hàng trên của Banknet.vn và có xu hướng tăng với tốc độ khác nhau. Như vậy, từ khi chính thức vận hành đến hết tháng 4/2007 đã có khoảng 450 giao dịch thực hiện qua hệ thống. Con số này tăng gần gấp 3 lần trong tháng 5/2007 và tăng gấp 5 lần trong tháng 6/2007. Dự kiến cuối năm số lượng giao dịch sẽ tăng lên khoảng 4.000 - 4.500 giao dịch/ngày, xấp xỉ gấp 10 lần so với giai đoạn đầu mới đi vào hoạt động.
Dự kiến, trong tương lai gần, 04 ngân hàng tiếp theo là Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn (Agribank), Ngân hàng TCMP Á Châu (ACB), Ngân hàng TMCP Sài Gòn Thương tín (Sacombank) và Ngân hàng TMCP Đông Á (EAB) cũng triển khai dịch vụ thanh toán thẻ liên ngân hàng thông qua hệ thống Banknet.vn.
Như vậy cả 04 ngân hàng quốc doanh Việt Nam gồm Agribank, Incombank, VCB và BIDV đều đã tìm cho mình một liên minh thanh toán thẻ để liên kết. Thực tế này chắc chắn sẽ giúp hệ thống thanh toán thẻ tại Việt Nam hoạt động hiệu quả hơn với chi phí thấp, mang lại lợi ích cho cả người tiêu dùng và ngân hàng.
7.1.4.3. Ngân hàng với thanh toán điện tử
* Dịch vụ ngân hàng trực tuyến (Internet Banking)
Dịch vụ ngân hàng trực tuyến là một khái niệm bắt đầu phổ biến trong vài năm gần đây khi số lượng ngân hàng cung cấp dịch vụ này tăng mạnh từ năm 2004.
Tốc độ phát triển của dịch vụ ngân hàng trực tuyến là một minh chứng rõ ràng cho những thay đổi trong hoạt động thanh toán từ phía ngân hàng nhằm phục vụ tốt hơn nhu cầu của người tiêu dùng. Sự chuyển biến này hoàn toàn phù hợp với tốc độ và xu thế phát triển của thương mại điện tử Việt Nam. Khi thương mại điện tử ngày càng phổ biến trong xã hội, thanh toán điện tử sẽ là một nhu cầu tất yếu để thúc đẩy các bước phát triển tiếp theo.
Ngân hàng hiện nay được coi là một trong những lĩnh vực phát triển nhanh, với sự tham gia năng động của doanh nghiệp trong nước và ngoài nước. Cùng với tiến bộ của công nghệ trong việc nâng cấp dịch vụ của mình. Điều này được chứng minh rõ nét qua tốc độ gia tăng số lượng ngân hàng cung cấp dịch vụ ngân hàng trực tuyến trong thời gian qua.
Kết quả khảo sát các Website cung cấp dịch vụ ngân hàng trực tuyến cho thấy nhiều điểm tương đồng giữa các ngân hàng. Các Website đều có cấu trúc hợp lý, đơn giản và hướng dẫn cụ thể để khách hàng dễ dàng truy cập và thao tác thực hiện yêu cầu của mình.
• Tra cứu số dư tài khoản
• Tra cứu thông tin ngân hàng
• Sao kê tài khoản hàng tháng
Ngoài ra, các ngân hàng cũng có thể vận dụng kênh giao dịch trực tuyến để cung cấp thêm một số dịch vụ chuyên ngành khác như chuyển đổi ngoại tệ, đăng ký mở thư đảm bảo tín dụng (L/C), chuyển tiền ra nước ngoài, đăng ký sử dụng các sản phẩm, dịch vụ ngân hàng khác.... Cho tới cuối năm 2007, hầu hết các ngân hàng vẫn chưa thể triển khai dịch vụ ngân hàng trực tuyến toàn diện.
Tuy nhiên, những tính năng cơ bản và mang lại lợi ích ban đầu cho người tiêu dùng đã được đưa vào hoạt động tại tất cả 18 ngân hàng triển khai dịch vụ ngân hàng trực tuyến. Trong đó, tra cứu số dư tài khoản cá nhân và thông tin sao kê hàng tháng là tính năng phổ biến nhất. Tính năng này giúp khách hàng ngồi tại chỗ với máy tính nối mạng có thể kiểm tra số dư tài khoản và nhật ký chi tiêu của mình mỗi tháng mà không cần đến ngân hàng hoặc chờ nhận thông tin từ ngân hàng gửi đến qua đường bưu điện.
Tính năng cơ bản thứ hai vẫn thuộc nhóm cung cấp thông tin, những thông tin có tính thay đổi thường xuyên như tỷ lệ lãi suất tiết kiệm, tỷ giá ngoại tệ, vàng,... cũng được cung cấp cho khách hàng một cách nhanh chóng và nhiều ngân hàng đưa vào hoạt động là cho phép chuyển khoản trong cùng hệ thống ngân hàng. Thay vì việc phải đến các điểm giao dịch của ngân hàng trong một khoảng thời gian làm việc nhất định, người tiêu dùng có thể đặt lệnh chuyển khoản vào bất cứ lúc nào từ một máy tính nối mạng. Tính năng này giúp khách hàng tiết kiệm và chủ động được thời gian giao dịch. Hiện mới chỉ có 4 ngân hàng là Kỹ thương, Indovina, Á Châu và chi nhánh Citibank Việt Nam cho phép chuyển khoản ngoài hệ thống trên tổng số 8 ngân hàng có chức năng chuyển khoản trực tuyến.
Một trong những cản trở đối với việc cung cấp trực tuyến dịch vụ chuyển khoản ngoài hệ thống là mối lo về mức độ an toàn, bảo mật của khách hàng cũng như năng lực của ngân hàng lõi (core banking) chưa đảm bảo. Tuy nhiên, con số 4 ngân hàng triển khai dịch vụ chuyển khoản ngoài hệ thống cũng cho thấy một tín hiệu khả quan về nỗ lực của nhà cung cấp trong việc tạo nhiều tiện ích hơn nữa cho người sử dụng và mở rộng phạm vi của giao dịch ngân hàng trực tuyến.
Ngân hàng trực tuyến là một dịch vụ gia tăng mới của các ngân hàng trong hai năm trở lại đây, mang nhiều lợi ích cho cả ngân hàng và người tiêu dùng. Dịch vụ ngân hàng trực tuyến được nhận định là lợi thế cạnh tranh trong tương lai gần của các ngân hàng tại thị trường Việt Nam. Cả ngân hàng trong nước và nước ngoài đều đang từng bước triển khai dịch vụ này. Citibank là một ví dụ điển hình của ngân hàng nước ngoài triển khai dịch vụ trực tuyến tại chi nhánh ở Việt Nam.
Citibank Việt Nam với dịch vụ ngân hàng trực tuyến.
Năm 1995, Citibank là ngân hàng đầu tiên áp dụng hệ thống ngân hàng điện tử cho phép khách hàng tự thực hiện giao dịch qua mạng. Năm 2006, Citibank tiếp tục mở rộng dịch vụ để cung cấp cho khách hàng thông tin trực tuyến về trạng thái giao dịch thương mại của mình. Sau đó, Citibank triển khai giao diện đầu tư trực tuyến toàn cầu cho các quyền chọn đầu tư trong và ngoài nước.
Đến tháng 4/2007 Citibank Việt Nam đã chính thức giới thiệu sản phẩm toàn cầu đến Việt Nam là hai kênh dịch vụ ngân hàng trực tuyến gồm dịch vụ Đầu tư Citibank Online và dịch vụ thanh toán thương mại điện tử CitiConnectSM. Với hai dịch vụ trực tuyến nêu trên, ngân hàng trực tuyến mà CitiBank cung cấp được coi là khá hoàn hảo đối với người tiêu dùng. Dịch vụ trực tuyến cung cấp cho khách hàng bao gồm:
• Thông tin báo cáo:
- Tổng kết các khoản chi tiêu của tài khoản
- Thông tin các khoản giao dịch
- Thông tin lãi suất
- Báo cáo của ngân hàng
• Các chức năng nghiệp vụ:
- Thanh khoản, đầu tư điện tử
- Chuyển khoản trong và ngoài hệ thống, chuyển khoản toàn cầu.
Các dịch vụ ngân hàng Việt Nam hiện nay tuy có nhiều chuyển biến nhưng vẫn còn khá nghèo nàn, trong đó các dịch vụ dựa trên nền công nghệ thông tin còn ít và chưa đáp ứng được yêu cầu kinh doanh. Trong bối cảnh hội nhập kinh tế của WTO, các ngân hàng trong nước sẽ phải cạnh tranh bình đẳng với các ngân hàng quốc tế có thế mạnh vượt trội cả về vốn, công nghệ, dịch vụ và năng lực quản lý. Thực tế này đang đặt ra yêu cầu cho ngành ngân hàng nói chung và các ngân hàng thương mại nói riêng phải nỗ lực hiện đại hóa công nghệ, nâng cấp dịch vụ khách hàng. Ngân hàng trực tuyến chính là một trong những giải pháp hữu hiệu nhằm đáp ứng nhu cầu đa dạng của khách hàng, đồng thời giúp các ngân hàng cung cấp dịch vụ một cách nhanh chóng, thuận tiện và hiệu quả hơn, tạo lợi thế cạnh tranh trên thị trường.
Ngân hàng trực tuyến thực sự là một xu thế tất yếu, hứa hẹn mang lại nhiều lợi ích hơn nữa cho ngân hàng và người tiêu dùng. Vì vậy, xu hướng phát triển của ngân hàng trực tuyến được dự đoán khá quan trọng bối cảnh hội nhập và bùng nổ Internet.
* PayNet với thanh toán qua POS và ePOS
Công ty cổ phần Mạng thanh toán VINA gọi tắt là PayNet tham gia thị trường thanh toán điện tử Việt Nam vào tháng 4/2007. Mục tiêu kinh doanh của PayNet là tạo ra cầu trung gian thanh toán giữa ngân hàng và các nhà cung cấp sản phẩm, dịch vụ thông qua thiết bị điện thoại cố định, điện thoại di động, máy tính có kết nối Internet hoặc trên ATM, POS được lắp đặt tại các chi nhánh ngân hàng, đại lý thanh toán thẻ, đặc biệt là chuỗi cửa hàng bán lẻ trên toàn quốc.
Chiến lược kinh doanh của Paynet được chia làm hai giai đoạn với dòng sản phẩm và dịch vụ có tính năng khác nhau. Giai đoạn 1, PayNet triển khai dịch vụ bán thẻ điện thoại trả trước, áp dụng cho tất cả các loại thẻ hiện đang được sử dụng với bất cứ mệnh giá nào. Mô hình bán thẻ được thực hiện thông qua hệ thống thiết bị thanh toán đầu cuối POS. Sau khi thanh toán, các đại lý sẽ sử dụng thẻ đại lý của mình và vào POS, từ đó in ra mã số thẻ nạp thẻ, số seri, thời hạn sử dụng, thời điểm mua thẻ, địa điểm mua thẻ và hướng dẫn sử dụng. Hoặc người tiêu dùng có thể sử dụng thử ATM của mình tại các ngân hàng có kết nối để thao tác các dịch vụ này. Mô hình thanh toán tổng thể của PayNet được minh họa dưới đây.
Bước 1: Khách hàng đến đại lý của PayNet, chọn thẻ điện thoại cần mua và chọn phương pháp thanh toán bằng thẻ hay bằng tiền mặt.
Bước 2: Đại lý thao tác trên thiết bị POS, cà thẻ qua máy và nhập số PIN. Yêu cầu về mã thẻ trả trước cùng thông tin thanh toán sẽ được gửi về hệ thống chuyển mạch thanh toán của PayNet.
Bước 3: Hệ thống thanh toán kiểm tra thông tin thanh toán, kiểm tra hàng và xuất mã thẻ trả trước và gửi tín hiệu cho thiết bị POS.
Bước 4: Thiết bị POS in ra phiếu mã thẻ trả trước và biên lai. Đại lý chuyển phiếu mã thẻ trả trước cho khách hàng.
QUY TRÌNH THANH TOÁN
Bước 1: Khi thanh toán, khách hàng vào thẻ ATM, thẻ ghi nợ, thẻ trả trước của ngân hàng kết nối qua thiết bị POS và kiểm tra tổng số tiền thanh toán và nhập PIN.
Bước 2: Thiết bị POS kết nối về hệ thống PayNet, gửi yêu cầu xử lý giao dịch thanh toán điện tử.
Bước 3: Hệ thống PayNet kiểm tra thông tin bảo mật và cấp phép và chuyển giao dịch sang ngân hàng tương ứng để thực hiện.
Bước 4: Ngân hàng kiểm tra thông tin giao dịch và chuyển khoản từ tài khoản khách hàng sang tài khoản đại lý. Sau đó, kết quả giao dịch được gửi lại cho PayNet.
Bước 5: PayNet ghi nhận kết quả giao dịch và gửi thông tin giao dịch tới thiết bị POS.
Bước 6: Thiết bị POS in biên lai. Đại lý sẽ chuyển biên lai cho khách hàng để chứng nhận giao dịch thanh toán.
Tiện ích của dịch vụ này đối với người sử dụng là có thể đa dạng hóa các mệnh giá thẻ điện thoại di động trả trước. Khách hàng có thể sử dụng dịch vụ để mua hoặc tặng giá trị thẻ cho người khác. Tiện ích đối với các đại lý bán thẻ là không phải bỏ ra một lượng vốn nhất định cho việc mua thẻ để tích lũy. Đối với các nhà cung cấp dịch vụ viễn thông, họ có thể tiết kiệm chi phí in ấn và quản lý thủ công các thẻ cào bán ra. Quan trọng hơn cả, hình thức thanh toán này sẽ giúp cho người tiêu dùng nâng cao ý thức hạn chế sử dụng tiền mặt trong giao dịch và làm quen với phương thức thanh toán điện tử.
Mục đích của giai đoạn này là thiết lập một mạng lưới đại lý POS của PayNet, từ đó tạo tiền đề để phát triển giai đoạn 2. Sau 1 năm triển khai, PayNet đã có mạng lưới 1000 điểm POS tại hai thành phố lớn Hà Nội và Thành phố Hồ Chí Minh. Dự kiến hết năm 2007, PayNet thiết lập được 6.000 điểm trên toàn quốc và bắt đầu bước sang giai đoạn 2 của chiến lược phát triển kinh doanh. Đây là giai đoạn kết nối thanh toán trực tuyến với các ngân hàng và các nhà cung cấp sản phẩm, dịch vụ như viễn thông, trò chơi trực tuyến, điện, nước, bảo hiểm...
Ở giai đoạn này, POS được ứng dụng dưới một định dạng khác có kết nối Internet là ePOS, nhằm hỗ trợ tốt hơn việc thanh toán các hóa đơn nêu trên. ePOS là giải pháp thanh toán được cài đặt trên máy tính có kết nối Internet và hệ thống quản lý thẻ Way4, kho hàng số đặt tại PayNet. Với giải pháp này khách hàng có thể thực hiện các giao dịch như thanh toán thẻ, top-up tài khoản trước, và thanh toán hóa đơn, các dịch vụ gia tăng khác. Ưu điểm nổi bật của giải pháp này là tính bảo mật cao do được mã hóa nhiều lớp. Việc kết nối mạng Internet giúp giảm chi phí thiết bị cho đại lý và nâng cao hơn nữa tiện ích cho khách hàng. Các ngân hàng thành viên của PayNet bao gồm Ngân hàng An Bình, Ngân hàng Nam Việt, Ngân hàng Kỹ thương, và Ngân hàng VP Bank.
Theo báo cáo của PayNet, số giao dịch trên toàn mạng lưới POS của công ty đến cuối năm 2007 đạt bình quân 150 nghìn giao dịch/ngày, doanh thu ước tính khoảng 2 tỷ đồng/ ngày. Trong thời gian sắp tới, PayNet tiếp tục ưu tiên mở rộng mạng lưới đại lý ở cả ba dạng POS, ePOS và mPOS với 5000 đại lý trong đó có 1000 POS, 2000 ePOS và 2000 mPOS. Doanh thu sẽ tăng 50% so với năm 2007, dự kiến đạt khoảng 3 tỷ đồng/ngày. Về mặt đối tác, các ngân hàng thành viên sẽ được mở rộng, dự kiến bao gồm Ngân hàng Quân đội, Ngân hàng Hàng Hải, Ngân hàng Quốc tế và Ngân hàng Xuất Nhập khẩu. Trong mảng thanh toán cước và hóa đơn trả sau, PayNet sẽ triển khai kết nối thanh toán tiền điện (EVN - ABB), ADSL (FPT), điện thoại di động trả sau cho Vinaphone, MoniFone, Viettel và bảo hiểm Prudential.
Ngày 19/12/2007, công ty cũng giới thiệu dịch vụ iTICK, cho phép khách hàng sử dụng thẻ nội địa của PayNet để thanh toán cho việc mua sắm trên các Website bán hàng trực tuyến, đồng thời phát hành thẻ SIVIcard là thẻ ưu đãi dành cho sinh viên có chức năng thanh toán trực tuyến. Chiến lược kinh doanh của PayNet được xác định theo mức phát triển tăng dần về các tính năng ứng dụng của dịch vụ mà công ty đưa ra. Theo lộ trình này, mục đích cuối cùng của PayNet cũng hướng tới xây dựng một cổng thanh toán tích hợp đa dịch vụ.
Trong số các dịch vụ thanh toán qua tin nhắn di động, thanh toán phí điện thoại di động bao gồm thuê bao trả trước và trả sau phát triển mạnh hơn cả. Rất nhiều doanh nghiệp trong lĩnh vực thanh toán điện tử đang bắt đầu triển khai cung cấp dịch vụ này. Tuy nhiên, để có thể phát triển mạnh dịch vụ, các doanh nghiệp phải thiết lập quan hệ đối tác với nhiều ngân hàng nhằm đáp ứng nhu cầu khách hàng mở tài khoản ở bất cứ ngân hàng nào. Mặc dù tổng giá trị giao dịch qua thiết bị di động còn thấp nhưng sự tiện dụng của hình thức thanh toán này chính là lợi thế cạnh tranh giúp nó duy trì vị thế trong thị trường thanh toán hiện nay. Đối tượng của dịch vụ thanh toán này là người sử dụng đầu cuối trong giao dịch B2C, vì vậy, đòi hỏi dịch vụ phải đơn giản, dễ thực hiện và an toàn.
Công ty Giải pháp thanh toán Việt Nam, gọi tắt là VnPay, đã đưa ra dịch vụ thanh toán và nạp tiền qua tin nhắn như một dịch vụ gia tăng tiện ích của viễn thông trong hoạt động thanh toán điện tử. VnPay phát triển một hệ thống kết nối với các ngân hàng và triển khai mạng lưới đại lý nạp tiền cho các thuê bao trả trước và thanh toán hóa đơn trả sau bằng cách gửi tin nhắn SMS lệnh trừ tiền tài khoản từ ngân hàng để thanh toán.
Dịch vụ thanh toán qua tin nhắn SMS được cung cấp dưới hai hình thức là nạp tiền trực tiếp cho các thuê bao trả trước và thanh toán hóa đơn cước trả sau. Đối với dịch vụ nạp tiền trực tiếp cho các thuê bao trả trước, tất cả những thuê bao trả trước có tài khoản tại ngân hàng có thể sử dụng hình thức nhắn tin để nạp tiền trực tiếp vào số di động của mình với mệnh giá tùy ý. Ngoài việc tự nạp tiền cho chính mình, người tiêu dùng có thể tặng tiền vào tài khoản cho người khác với một tin nhắn tương tự. Việc thanh toán các tài khoản di động sẽ được trừ trực tiếp vào tài khoản ngân hàng của chủ số điện thoại này. Đối với thuê bao trả sau, khách hàng có thể sử dụng loại dịch vụ thanh toán hóa đơn cước trả sau để thực hiện thao tác thanh toán hóa đơn của mình. Sau khi nhận được thông báo cước, tại bất cứ đâu vào thời gian nào, khách hàng có thể thực hiện thanh toán hóa đơn đó thông qua tin nhắn SMS. Số tiền cước di động sẽ được chuyển từ tài khoản của khách hàng sang công ty cung cấp dịch vụ viễn thông.
Ngoài ra, để tăng cường thêm kênh phân phối các công ty viễn thông, dịch vụ mà VnPay cung cấp cho phép các đại lý bán hàng sử dụng điện thoại đăng ký, số tài khoản đã có ở ngân hàng và đăng ký với VnPay để tham gia phân phối thuê bao trả trước bằng tin nhắn. Như vậy những đại lý này không cần ứng tiền trước, không cần kho hàng và không cần mua trước mệnh giá thẻ tiền nạp mà vẫn có thể cung ứng dịch vụ cho người tiêu dùng cuối cùng. Đây sẽ là một tiện ích có ưu điểm khá vượt trội dành cho các đại lý di động hiện nay. Dịch vụ của VnPay hướng tới người tiêu dùng cuối cùng, do vậy những yêu cầu đặt ra để thanh toán, nạp tiền thông qua tin nhắn cũng được đơn giản hóa. Khách hàng chỉ cần đăng ký sử dụng dịch vụ tại các ngân hàng, các công ty viễn thông hoặc VnPay. Các thông tin đăng ký bao gồm tài khoản thẻ ATM tại một ngân hàng được chỉ rõ, số di động thực hiện nhắn tin. Những thông tin này được VnPay và ngân hàng thanh toán xác nhận trước khi kích hoạt dịch vụ nhằm bảo đảm lợi ích cho các bên.
Các bước thực hiện của VnPay
1. Khách hàng (thuê bao) gửi tin nhắn đến tổng đài số ngắn 8x49 do Công ty viễn thông (Telco) cấp cho VnPay.
2. Tin nhắn được chuyển sang ngân hàng (nơi khách hàng mở tài khoản).
3. Ngân hàng thực hiện thanh toán, chuyển tiền từ tài khoản của khách hàng vào tài khoản của VnPay và thông báo lại cho VnPay.
4. VnPay gửi lệnh nạp tiền vào tài khoản cho khách hàng sang Telco.
5. Telco nạp tiền cho khách hàng và thông báo cho VnPay (đồng thời thông báo cho khách hàng).
VnPay thông báo cho khách hàng bằng SMS. Trong giai đoạn đầu, VnPay cung cấp dịch vụ thanh toán cho hệ thống mạng di động Vinaphone qua hệ thống ngân hàng Incombank. Toàn bộ thuê bao của mạng di động Vinaphone có thể đăng ký sử dụng dịch vụ của VnPay tại ATM của ngân hàng Incombank. Dịch vụ thanh toán này chính thức đi vào hoạt động từ tháng 10/2007, vì vậy, vẫn còn quá sớm để nói về doanh thu và lợi nhuận từ hình thức này mang lại. Tuy nhiên, việc mở rộng liên kết với các công ty viễn thông và doanh nghiệp cung cấp dịch vụ trong nhiều lĩnh vực khác nhau cùng mạng lưới ngân hàng đang là mục tiêu hướng tới của nhiều doanh nghiệp thanh toán hiện nay. Điều này chứng tỏ thị trường thanh toán điện tử tại Việt Nam rất có tiềm năng và còn nhiều chỗ cho các doanh nghiệp khẳng định mình.

BÌNH LUẬN ()