-->

MỘT SỐ ỨNG DỤNG BƯỚC ĐẦU CỦA CHÍNH PHỦ ĐIỆN TỬ Ở VIỆT NAM

7.2. MỘT SỐ ỨNG DỤNG BƯỚC ĐẦU CỦA CHÍNH PHỦ ĐIỆN TỬ Ở VIỆT NAM
7.2.1 Cổng chính phủ điện tử
Với cổng thông tin điện tử Chính phủ www.chinhphudientu.vn, thay vì phải truy cập vào rất nhiều Website khác nhau để tiếp cận được các nguồn thông tin điện tử của các cơ quan trong hệ thống hành chính nhà nước, người dân, doanh nghiệp chỉ cần thông qua một Website duy nhất được xây dựng theo công nghệ cổng giao tiếp (Portal) để truy cập vào các kho tài nguyên thông tin, tri thức của cả hệ thống đó.
Giao diện cổng thông tin điện tử Chính phủ sẽ tích hợp hệ thống bản đồ hành chính Việt Nam, sử dụng công nghệ GIS để thể hiện đầy đủ nội dung bản đồ của các cấp hành chính của nước ta.
Điểm nổi bật của cổng thông tin điện tử Chính phủ là có các cửa giao dịch điện tử theo công nghệ dịch vụ Web giữa các chủ thể (các cơ quan Chính phủ và chính quyền - G2G; dịch vụ Chính phủ với người dân - G2C; Chính phủ với doanh nghiệp - G2B; Chính phủ với người ngoài nước - G2NR) theo kiến trúc cổng tương tác thông tin.
Năm 2008, Website Chính phủ, nay là cổng thông tin điện tử Chính phủ đã đưa lên mạng gần 10.000 tin, bài, hơn 2.000 ảnh, gần 3.000 văn bản quy phạm pháp luật và hơn 2.000 văn bản chỉ đạo điều hành của Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ.

7.2.2. Mạng Cityweb TP.HCM
Từ tháng 02/2001, UBND TP.HCM ban hành quyết định nội dung thông tin cho các sở, ngành nối mạng HCM Cityweb của toàn thành phố. Trang web này cung cấp tất cả các thông tin liên quan đến thành phố, phục vụ nhiều đối tượng, trong đó có cả các doanh nghiệp trong và ngoài nước. Qua mục “tổng quan về thành phố” và mục “đầu tư”, doanh nghiệp có thể nhận được đầy đủ thông tin về kinh tế - xã hội, môi trường đầu tư, các dự án kêu gọi đầu tư, các địa chỉ cần thiết để giao dịch, các văn bản pháp luật của Việt Nam và thành phố để chuẩn bị quyết định đầu tư. Hiện nay, ngoài phần tiếng Việt, mục tiêu đầu tư đã có thêm phần tiếng Anh và đang thực hiện chuyển sang tiếng Trung, tiếng Nhật. Đây là công cụ phục vụ đắc lực cho các nhà đầu tư.
Người dân Việt Nam ở mọi miền đất nước hoặc người nước ngoài có thể truy cập các thông tin về lịch sử thành phố, văn hóa, du lịch, về các hệ thống giáo dục, y tế, về nhiệm vụ, chức năng của các sở, ngành của thành phố, về các quyết định của UBND thành phố liên quan đến phát triển kinh tế, về đền bù và giải tỏa, về quy hoạch đô thị,... Bên cạnh trang thông tin tích hợp trên Internet, thành phố cũng đang triển khai hệ thống thông tin đối thoại trên mạng cục bộ của thành phố. Hệ thống này tạo ra kênh đối thoại qua mạng giữa người dân, doanh nghiệp, các sở, ngành của thành phố. Thông qua hệ thống đối thoại qua mạng, người dân có thể phản ánh kịp thời các khó khăn trong cuộc sống. Lãnh đạo các cấp, các ngành có thể trả lời trực tiếp cho người dân, đồng thời thông qua kênh đối thoại có thể biết được cấp dưới thực hiện chỉ đạo của cấp trên ra sao.
7.2.2.1. Hệ thống thông tin tin học hóa tại Quận 1 TP. Hồ Chí Minh
Quận 1 đã ứng dụng công nghệ thông tin từ năm 1990. Đến nay, nhìn chung việc ứng dụng công nghệ thông tin vào dịch vụ hành chính và quản lý nhà nước tại Quận 1 đã đạt được nhiều kết quả khả quan; trong đó có một số chương trình hoạt động tốt, ổn định như chương trình cấp giấy chứng nhận kinh doanh, cấp giấy phép xây dựng, xử lý vi phạm hành chính, giải quyết đơn khiếu nại, quản lý dân số và lao động, quản lý cán bộ và đặc biệt là kết nối với mạng diện rộng của Văn phòng Chính phủ, Văn phòng UBND thành phố, giúp tra cứu một cách thuận tiện các văn bản phục vụ quản lý và điều hành.
Kết quả này có được là do UBND Quận 1 có một hệ thống thông tin đảm bảo phục vụ tốt mô hình tiếp dân và công tác xử lý hồ sơ liên quan đến người dân, tổ chức,... một cách có hiệu quả nhất. Tất cả các văn bản pháp luật của Trung ương do Văn phòng Chính phủ đưa xuống được đưa vào cơ sở dữ liệu và cài đặt máy ở các đơn vị trực thuộc. Thông qua mạng nội bộ, các đơn vị, các phòng ban trực thuộc có thể tra cứu các thông tin này khi cần thiết. Các văn bản pháp quy được sắp xếp sẵn theo hệ thống và cho phép truy cập, tra cứu dễ dàng với kiến thức sơ đẳng về máy tính. Có thể mở thêm nhiều trạm tra cứu để người dân truy cập vào. Đây là phương tiện thông tin để người dân thông hiểu pháp luật và các chỉ thị, văn bản được công bố.
7.2.2.2. Đăng ký kinh doanh qua mạng
Vào năm 1996, Sở KH&ĐT TP. HCM đã tiến hành một mạng thông tin diện rộng và lập cơ sở dữ liệu của hơn 10.000 doanh nghiệp đã đăng ký, xây dựng quy trình đăng ký kinh doanh khép kín. Tiếp đến, từ tháng 8/2000, Sở đã khai trương “Trang thông tin doanh nghiệp” bao gồm thông tin về tất cả các doanh nghiệp trên địa bàn thành phố. Hệ thống thông tin của Sở KH&ĐT đã phát huy tác dụng. Theo Luật Doanh nghiệp, cơ quan đăng ký kinh doanh phải cung cấp thông tin cho các cơ quan quản lý nhà nước, các tổ chức, thậm chí là cả các cá nhân. Nhờ hệ thống thông tin của mình, Sở đáp ứng thông tin kịp thời, tổng hợp các báo cáo của cơ quan đăng ký kinh doanh với các ngành chức năng theo từng thời kỳ hoặc đột xuất. Đặc biệt, Sở KH&ĐT dễ dàng báo cáo cho lãnh đạo thành phố biết được có bao nhiêu doanh nghiệp theo ngành nghề hoạt động trên từng địa bàn, tổng vốn đăng ký, số lượng lao động,... hoặc giúp doanh nghiệp tìm hiểu về một doanh nghiệp khác đang hoạt động hay giải thể, cung cấp các thông tin cần thiết khác để họ có thể ký kết hợp đồng với đối tác.
Sở KH&ĐT TP.HCM cũng đã đưa ra trang Web www.hcminvest.gov.vn bằng tiếng Anh phục vụ cho người nước ngoài. Phần nội dung dành cho công chúng trong nước bằng tiếng Việt được đưa lên trang www.hcmste.gov.vn thuộc Sở khoa học công nghệ và môi trường TP.HCM.
Sau khi xây dựng xong quy trình đăng ký doanh nghiệp khép kín, từ ngày 01/01/2000, công tác đăng ký kinh doanh của Sở đã được xử lý qua mạng nội bộ (LAN). Điều này có nghĩa là khi doanh nghiệp nộp hồ sơ, phòng Đăng ký kinh doanh sẽ tiếp nhận xử lý theo quy trình trên mạng nội bộ. Với hình thức đăng ký này, doanh nghiệp phải đến Sở để nhận mẫu đơn đúng theo yêu cầu và nộp lại. Trong quá trình xử lý, những người này có trách nhiệm sẽ kiểm tra thông tin trong đơn, bộ phận tiếp nhận sẽ hẹn ngày đến nhận giấy phép.
Đăng ký kinh doanh qua mạng đem lại nhiều lợi ích cho cả cơ quan đăng ký kinh doanh và cả doanh nghiệp. Đăng ký kinh doanh qua mạng giúp hạn chế những sai sót trong nhập liệu như ngày tháng năm sinh, số chứng minh nhân dân. Các doanh nghiệp, thay vì phải đến cơ quan đăng ký kinh doanh để được hướng dẫn đăng ký kinh doanh, có thể ngồi ở văn phòng để xem hướng dẫn trực tiếp từ hệ thống. Nếu đăng ký kinh doanh qua mạng, doanh nghiệp có thể tiết kiệm được thời gian chờ đợi, giảm được số lần phải đến Sở (chỉ phải đến một lần).
7.2.3. Những Website cho nông dân Việt Nam
Hiện Bộ NN&PTNT quy định: Từ ngày 01/7/2001, thủ trường các đơn vị trực thuộc Bộ, Giám đốc các Sở NN&PTNT, Chi Cục trưởng chi cục kiểm lâm các tỉnh... có trách nhiệm kết nối với mạng của Bộ để nhận thông tin phục vụ công tác quản lý, chỉ đạo, điều hành, tổ chức lấy tin, gửi tin, báo cáo qua mạng tin học của Bộ và qua thư điện tử. Hàng ngày lãnh đạo các đơn vị phải truy cập thông tin trên mạng ít nhất hai lần vào buổi sáng và buổi chiều để theo dõi và nắm bắt kịp thời các ý kiến chỉ đạo của Bộ, các văn bản mới của nhà nước. Qua Website này, những văn bản không cần phải đóng dấu đỏ sẽ được đưa trực tiếp lên mạng, các văn bản này bao gồm các báo cáo thông báo tình hình của Bộ, báo cáo Bộ gửi Chính phủ, các cơ quan của Bộ... chiếm 70% tổng số lượng công văn, giấy tờ.
7.2.3.1. Trang web hỗ trợ phòng chống bão lụt, giảm nhẹ thiên tai
Trang web hỗ trợ phòng chống bão lụt, giảm nhẹ thiên tai www.pclb.vnn.vn. Từ Website này, chúng ta có thể kết nối sang trang do Phòng chống lụt bão miền Trung phụ trách. Tại đây, những thông tin về tình hình thiên tai trên cả nước được liên tục cập nhật. Ví dụ, tin áp thấp nhiệt đới của Trung tâm quốc gia dự báo khí tượng thủy văn được phát lúc 14 giờ 30 phút thì 25 phút sau bản tin đó cũng xuất hiện trên Internet.
7.2.3.2. Trang thông tin về nông sản
Trang thông tin về nông sản www.agroviet.gov.vn. Nhờ sự cộng tác của mạng thông tin thương mại thị trường Việt Nam (Vitranet) và Bản tin thị trường (Bộ Nông nghiệp và phát triển nông thôn), Website www.agroviet.gov.vn cung cấp thông tin thị trường, thiết lập cầu nổi giữa người sản xuất, người kinh doanh, các nhà hoạch định chính sách với các nhà đầu tư và nhà tài trợ trong và ngoài nước.
Thông qua Website này các doanh nghiệp có thể tìm kiếm đối tác trong lĩnh vực sản xuất, kinh doanh liên quan đến nông nghiệp. Nguồn thông tin của Website này thu hút từ các kênh thông tin trên thế giới qua ăng-ten parabol (thông tin về nông phẩm, giá cả các sản phẩm nông nghiệp trên thế giới...), thông tin trong nước có nguồn từ Ban Vật giá Chính phủ, Tổng cục thống kê, Tổng cục hải quan, Thông tấn xã Việt Nam,... đối tượng hưởng lợi trực tiếp từ trang thông tin này chủ yếu là các doanh nghiệp vừa và nhỏ. Trên các trang chuyên về nông sản Việt Nam, về lúa gạo, về mía đường, cà phê, cao su đều có các thông tin về giá cả của các loại nông sản này như giá đóng cửa, giá mở cửa của các thị trường nông sản thế giới, giá cả trong nước, những chính sách mới về nông sản trong nước, trên thế giới, các dự bán về thị trường nông sản... Những thông tin này rất hữu ích cho các doanh nghiệp trong việc xúc tiến thương mại, đồng thời giúp họ tiết kiệm được thời gian và tiền bạc.
7.2.4. Báo điện tử
Hiện nay, Việt Nam có 21 tờ báo, tạp chí điện tử, điển hình là các tờ báo Nhân Dân, Sài Gòn giải phóng, Lao động, Người lao động, Quốc tế, Quê hương, Đầu tư, Thời báo kinh tế, Sài Gòn tiếp thị,... Con số 21 trên 500 tờ báo và tạp chí vẫn còn khiêm tốn. Song để tìm được hết tất cả các tờ báo, tạp chí điện tử hiện nay lại không đơn giản chút nào, kể cả đối với những người làm việc thường xuyên trên mạng. Khó khăn lắm mới được một nửa số báo điện tử, tạp chí đó.
Các tờ báo dễ tìm thấy trên mạng có nội dung và hình thức khá tốt. Các trang chủ tổ chức có trật tự, màu sắc bắt mắt, chứng tỏ chúng được xây dựng và duy trì ở mức độ chuyên nghiệp cao. Tuy nhiên, đa số các bài được đưa lên mạng chỉ dừng lại ở mức lặp lại trang tin trên các tờ báo in của chính nó. Lợi thế của báo điện tử là đưa tin nhanh, dung lượng lớn, đa dạng gần như bị tuột khỏi tay các Tổng Biên tập. Phần lớn những người làm báo điện tử chỉ đơn thuần là biên tập viên chứ chưa có phóng viên thực thụ và chuyên nghiệp theo nghĩa “điện tử”. Đó là nguyên nhân chính làm thu hẹp thị trường độc giả và do đó các báo điện tử ở nước ta vẫn sống nhờ vào báo in, nguồn thu từ quảng cáo trực tuyến cũng rất khiêm tốn.
Hiện nay, Báo điện tử đang gặp phải một số khó khăn. Đầu tiên là vấn đề thiếu ngân sách. Một vấn đề nữa là hành lang pháp lý cho báo điện tử. Bên cạnh đó, các tờ báo điện tử vấp phải đối thủ cạnh tranh là các trang điện tử như VASC - Orienrtz (www.vnn.vn), VN-Express (Vnexpress.net)... Hàng ngày có khoảng 6 triệu lượt người truy cập trang www.vnn.vn. Dung lượng tin tức của họ vượt trội, khoảng 140 tin mỗi ngày. Thực chất lượng tin ấy có đến 60% chép lại từ các tờ báo in và 25% dịch từ nguồn nước ngoài. (Nguồn: PCWorld Việt Nam số tháng 11/2002).
7.2.5. Thuế điện tử
Thực hiện kê khai điện tử đối với hoạt động kê khai thuế dựa trên hệ thống cơ sở dữ liệu được xử lý tập trung trên hệ thống ứng dụng CNTT về kê khai, nộp thuế và tính nợ, miễn giảm, phạt, hoàn thuế được gọi là kê khai thuế điện tử. Kê khai thuế điện tử được coi là thành phần cơ bản của thuế điện tử - môi trường áp dụng các hình thức giao dịch điện tử trong các hoạt động của ngành thuế như đăng ký thuế, kê khai thuế, nộp các hồ sơ về thuế, nộp thuế, miễn giảm, phạt, hoàn thuế, hỗ trợ người nộp thuế, các hoạt động nội bộ ngành thuế,...
Ở Việt Nam, nhu cầu thực hiện kê khai thuế điện tử của người dân, doanh nghiệp ngày càng lớn, nhất là khi Luật Thuế thu nhập cá nhân có hiệu lực từ ngày 01/01/2009. Tuy nhiên, để triển khai được mô hình hiện đại này không đơn thuần chỉ là vấn đề công nghệ, mà còn là vấn đề của nghiệp vụ, của hành lang pháp lý, của sự đồng bộ giữa các cơ quan liên quan...
Xét trên lý thuyết thì các văn bản pháp lý hiện tại đã tương đối đầy đủ để có thể thực hiện kê khai thuế điện tử ở Việt Nam. Đến nay, Chính phủ đã ban hành nhiều văn bản pháp luật có liên quan như Luật Giao dịch điện tử, các nghị định về giao dịch điện tử trong các lĩnh vực tài chính, ngân hàng, thương mại điện tử... đánh dấu bước tiến lớn trong việc tiếp tục hoàn thiện khung pháp lý để người nộp thuế yên tâm tiến hành giao dịch điện tử, khuyến khích giao dịch điện tử phát triển, bảo vệ quyền và lợi ích của các bên tham gia, đồng thời là căn cứ pháp lý để xét xử khi có tranh chấp liên quan đến hoạt động giao dịch điện tử.
Tuy nhiên, khi đi sâu vào các vấn đề thì vẫn còn thiếu các quy định cụ thể, ví dụ như quy định tờ khai thuế điện tử là như thế nào (phải có mẫu để người dân nhìn thấy được), tờ khai thuế điện tử được lưu trữ và quản lý như thế nào tại cơ quan thuế và tại người nộp thuế để có thể sử dụng và đối chiếu khi cần; thủ tục để người nộp thuế sử dụng phương thức kê khai thuế điện tử và việc sử dụng các giải pháp an toàn bảo mật (mật khẩu, chữ ký điện tử,...) phải được cụ thể hoá.
Để triển khai hoạt động kê khai thuế điện tử, ngoài các thông tư liên quan đến các vấn đề về kỹ thuật như an toàn, bảo mật,... và tổ chức thực hiện dịch vụ chứng thực điện tử, cấp chữ ký điện tử (chữ ký số) của các bộ ngành liên quan, Bộ Tài chính cũng cần ban hành Thông tư hướng dẫn giao dịch điện tử trong lĩnh vực thuế để hướng dẫn chi tiết các thủ tục để người nộp thuế đăng ký sử dụng. Bản thân ngành thuế cũng cần bổ sung, sửa đổi hoặc thay thế các quy trình nghiệp vụ hiện hành vì khi triển khai giao dịch kê khai thuế điện tử thì sẽ có nhiều bước thực hiện không thể nhìn thấy được...
Trong quá trình thực hiện mô hình thuế điện tử, khó khăn lớn nhất là việc chuẩn hoá các quy trình mẫu biểu kê khai thuế. Đây là cái rất cơ bản để thực hiện việc kê khai thuế điện tử. Vì khi đưa các mẫu kê khai lên mạng thì đòi hỏi tất cả các thông tin, chỉ tiêu trên tờ khai là phải được chuẩn hoá, các mẫu cũng phải chuẩn, các chỉ tiêu cũng phải đánh số và hướng dẫn rất chi tiết. Nếu mẫu biểu không chuẩn, hướng dẫn không chuẩn thì chỉ một sai sót có thể ảnh hưởng tới số thu của ngân sách. Ngành Thuế đang trong quá trình cải cách, nên các mẫu thay đổi thường xuyên để thử nghiệm, rút kinh nghiệm rồi lại thay đổi nên rất khó khăn để chuẩn hoá và kê khai thuế qua mạng.
Về cơ sở hạ tầng kỹ thuật, để triển khai hoạt động kê khai thuế điện tử và từng bước mở rộng các hoạt động giao dịch điện tử khác trong lĩnh vực thuế, ngành thuế cần xây dựng một hệ thống cơ sở hạ tầng kỹ thuật đảm bảo về an ninh, an toàn và có khả năng hoạt động liên tục 24x7. Với dự kiến về mức độ sẵn sàng cao của hệ thống cơ sở hạ tầng kỹ thuật thì đầu tư ban đầu cần khoản kinh phí lớn và trong thời gian sau đó phải có nguồn kinh phí duy trì vận hành và nâng cấp.
Ngay thời điểm hiện nay, nếu ngành thuế triển khai hoạt động kê khai thuế điện tử sẽ gặp phải khó khăn do chưa có các quy định cụ thể về dịch vụ chứng thực điện tử, cung cấp chữ ký điện tử. Do đó có thể ngành thuế phải từng bước nghiên cứu áp dụng, trước hết là khả năng sử dụng hình thức cung cấp tài khoản và mật khẩu áp dụng giải pháp an toàn cao, tiếp theo sẽ nghiên cứu nâng cấp sử dụng chữ ký số công cộng do các đơn vị được phép cung cấp thực hiện.
Sử dụng giải pháp chữ ký điện tử, theo kinh nghiệm một số nước đã triển khai các hoạt động thuế điện tử thì rất cần hình thành những đơn vị truyền nhận là trung gian trao đổi thông tin cung cấp dịch vụ giao dịch điện tử. Các đơn vị như vậy ở các nước thường gọi là VAN (Value Added Network) được hình thành để cung cấp các dịch vụ cơ sở hạ tầng kỹ thuật, dịch vụ an toàn, bảo mật thông tin, đảm bảo cung cấp dịch vụ tốt nhất các giao dịch điện tử nói chung trong nền kinh tế (trong đó có giao dịch thuế điện tử). Đơn vị cung cấp dịch vụ giao dịch điện tử có chức năng cung cấp dịch vụ chứng thực chữ ký điện tử đối với các tổ chức, cá nhân tự nguyện đăng ký sử dụng; Cung cấp cơ sở hạ tầng kỹ thuật về lưu trữ, xử lý sơ bộ, bảo đảm yêu cầu an toàn dữ liệu của các giao dịch điện tử giữa các tổ chức, cá nhân với cơ quan có cung cấp dịch vụ điện tử như thuế, hải quan, ngân hàng... và là dầu mối kết nối các giao dịch đa dạng giữa các đơn vị liên quan.
Có thể hình dung đơn vị cung cấp các dịch vụ nói trên là trung gian môi giới giao dịch điện tử, biên dịch để chuẩn hoá các thông tin trao đổi giữa các bên tham gia, trung chuyển chứng từ điện tử từ người nộp thuế đến cơ quan quản lý nhà nước và ngược lại. Đây cũng là trung gian xác thực các giao dịch để giải quyết các tranh chấp giữa các bên trong trường hợp phát sinh, xây dựng mô hình giao dịch điện tử “một cửa” cho các hoạt động dịch vụ công - qua đó tạo môi trường thuận lợi cho người dân tiếp cận các giao dịch điện tử qua mạng Internet...
Xét điều kiện cụ thể ở Việt Nam, trong giai đoạn triển khai hoạt động kê khai thuế điện tử trước mắt thì Tổng cục Thuế có thể trực tiếp cung cấp các ứng dụng tin học thông qua cổng thông tin điện tử ngành thuế trên mạng Internet để phục vụ kê khai thuế.
Đối với người nộp thuế, điều kiện tối thiểu là phải có máy tính được cán bộ kế toán thuế sử dụng cho mục đích kê khai thuế và phải kết nối được vào mạng Internet để chạy các ứng dụng kê khai thuế điện tử do Tổng cục Thuế trực tiếp cung cấp hoặc thông qua các đơn vị trung gian (VAN) đã đề cập ở trên.
Bên cạnh đó, ngành thuế cũng cần có hệ thống cơ sở dữ liệu về thuế xử lý tập trung để cung cấp thông tin cho người nộp thuế nắm bắt, đối chiếu với số liệu về việc thực hiện nghĩa vụ thuế, đóng góp vào ngân sách nhà nước do cơ quan thuế đang quản lý. Đối với cơ quan thuế thì cơ sở dữ liệu xử lý tập trung là điều kiện để thực hiện được các yêu cầu xử lý kê khai thuế điện tử đảm bảo tính liên tục, chính xác, đầy đủ trong quá trình quản lý thuế và có thể đưa ra các thông báo phù hợp cho người nộp thuế trong trường hợp cần thiết. Hiện tại hệ thống cơ sở dữ liệu chi tiết của người nộp thuế đang xử lý phân tán nên trước mắt Tổng cục Thuế sẽ thí điểm trong phạm vi Cục Thuế và mở rộng tương ứng với điều kiện triển khai xử lý dữ liệu tập trung.
Vấn đề khó khăn cần giải quyết nữa là câu chuyện nguồn nhân lực cả về phía doanh nghiệp lẫn phía cơ quan thuế. Hiện ngành Thuế đang cần phải đầu tư nâng cao chất lượng nguồn nhân lực. Tuy nhiên, việc thu hút nguồn nhân lực CNTT vào các cơ quan nhà nước hiện này rất bất cập. Do thu nhập trong khu vực CNTT chênh lệch quá lớn giữa cơ quan nhà nước và doanh nghiệp, tổ chức bên ngoài. Nếu như ở khu vực kinh tế thì tổng thu nhập chỉ chênh lệch hai ba lần, nhưng trong khu vực CNTT thì sự chênh lệch thu nhập là quá lớn. Do vậy mà ngành Thuế đang rất khó khăn trong việc thu hút và giữ nguồn nhân lực CNTT có chất lượng để đảm bảo triển khai hệ thống CNTT thành công.
Lộ trình thuế điện tử sẽ bắt đầu được triển khai từ 2009, đó là việc thực hiện kê khai thuế điện tử thí điểm cho một số doanh nghiệp trọng điểm cho một tỉnh, thành phố như Hà Nội hay TP. HCM. Trong giai đoạn này sẽ đồng thời hoàn thiện thông tư về giao dịch thuế điện tử làm cơ sở để triển khai mà mở rộng giai đoạn hai (2010).
Trong năm 2010, từ kết quả triển khai thí điểm, nếu kết quả tốt sẽ triển khai mở rộng ra các tỉnh thành phố khác để các doanh nghiệp có thể triển khai kê khai điện tử qua mạng. Đến 2011 - giai đoạn ba, ngành Thuế sẽ nghiên cứu để đem vào áp dụng việc nộp thuế qua mạng.
Để có thể triển khai thí điểm kê khai thuế điện tử, ngành Thuế sẽ tập trung xây dựng chuẩn giao tiếp và định dạng chuẩn giao tiếp thông tin nghiệp vụ về thuế, tích hợp ứng dụng kê khai thuế qua mạng với ứng dụng quản lý thuế hiện tại của Cục Thuế để cho phép nhận, xử lý dữ liệu từ tờ khai điện tử. Tiếp theo, ngành Thuế sẽ lựa chọn một số doanh nghiệp đủ điều kiện tham gia thí điểm kê khai Thuế qua mạng Internet (các doanh nghiệp này sẽ không phải sử dụng tờ khai giấy).
Khi triển khai kê khai thuế điện tử, về nghiệp vụ, cơ quan thuế sẽ cho phép người nộp thuế khai báo thuế (tờ khai thuế) qua mạng Internet dưới 2 hình thức: Điền thông tin trực tiếp trên mạng và gửi tệp tin dữ liệu theo định dạng chuẩn. Cơ quan thuế cũng sẽ hỗ trợ điền sẵn các thông tin chung về người nộp thuế trong tờ khai (tên người nộp thuế, mã số thuế, địa chỉ, điện thoại...) và đối chiếu một số thông tin kê khai của người nộp thuế với thông tin quản lý của cơ quan thuế, hay hỗ trợ người nộp thuế kiểm tra các ràng buộc về kê khai để đảm bảo tờ khai được gửi đến cơ quan thuế hợp lý...
Về kỹ thuật, hệ thống kê khai thuế sẽ được thiết kế theo mô hình kiến trúc hướng dịch vụ, trong đó dịch vụ kê khai điện tử sẽ được kết nối với hệ thống trao đổi, tích hợp các ứng dụng khác của Tổng cục Thuế nhằm đảm bảo kết nối với các ứng dụng hiện tại và các ứng dụng tập trung trong tương lai. Hệ thống ứng dụng cũng phải được thiết kế dựa trên các chuẩn mở: XML, web services..., có khả năng kiểm soát, phân quyền truy cập các thông tin theo từng người dùng, có khả năng lưu vết và quản lý các thông tin khai điện tử, đảm bảo an toàn, bảo mật thông tin riêng của người nộp thuế...
7.2.6. Hải quan điện tử
Nghiệp vụ hải quan điện tử là nghiệp vụ do dành cho các doanh nghiệp xuất nhập khẩu và các cơ quan hữu quan thực hiện bằng khai báo hải quan từ xa, thông qua đường truyền Internet giúp tiết kiệm tối đa thời gian và chi phí giao dịch trong quá trình khai báo hải quan cũng như thông quan so với cách thức truyền thống. Tuy nhiên, khi khai báo hải quan điện tử tại Việt Nam vẫn phải gửi hồ sơ gồm các thông tin đã khai hải quan điện tử đến chi cục hải quan điện tử (nơi đăng ký tham gia). Sau đó tiếp tục đợi và thực hiện theo các hướng dẫn của hải quan, sửa đổi các nội dung khi cơ quan hải quan yêu cầu, in 2 bản tờ khai hải quan điện tử... nộp cho hải quan, còn hàng hoá thì Chi cục hải quan điện tử yêu cầu phải xuất trình, nộp chứng từ giấy thuộc hồ sơ hải quan trước khi thông quan thì doanh nghiệp phải nộp hoặc xuất trình tờ khai in cùng các chứng từ giấy thuộc hồ sơ hải quan yêu cầu.
Trình tự thực hiện:
+ Đối với người nộp thuế
• Tạo thông tin khai điện tử trên máy tính theo đúng các tiêu chí quy định của pháp luật về quản lý thuế và khuôn dạng chuẩn của cơ quan hải quan.
• Gửi thông tin khai điện tử đến cơ quan hải quan
• Tiếp nhận thông tin phản hồi của cơ quan hải quan
o Thông báo hướng dẫn nộp hồ sơ đến cấp có thẩm quyền;
o Thông báo yêu cầu sửa đổi, bổ sung thông tin khai điện tử;
o Thông báo hướng dẫn làm thủ tục hải quan điện tử và thực hiện theo hướng dẫn tại thông báo;
o Nhận thông báo kết quả xét miễn thuế, giảm thuế; hoàn thuế; xoá nợ tiền thuế, tiền phạt.
+ Đối với cơ quan hải quan
o Hệ thống xử lý dữ liệu điện tử hải quan tự động kiểm tra tiếp nhận, phân loại thông tin khai điện tử theo các hình thức:
o Thông báo các trường hợp xét miễn thuế, giảm thuế; hoàn thuế; xoá nợ tiền thuế, tiền phạt vượt thẩm quyền của Chi cục hải quan điện tử; hướng dẫn người khai thuê nộp hồ sơ đến cấp có thẩm quyền.
o Thông báo các trường hợp thuộc thẩm quyền giải quyết của Chi cục hải quan điện tử và xác định rõ:
+ Yêu cầu sửa đổi, bổ sung thông tin khai điện tử;
+ Chấp nhận theo thông tin khai điện tử của người khai thuế;
+ Yêu cầu xuất trình hồ sơ thuế để kiểm tra.
Hệ thống quy trình thủ tục hải quan điện tử đã bao trùm các khâu trước, trong và sau thông quan. Đã mở rộng thủ tục hải quan điện tử cho hàng gia công, nhập nguyên liệu để sản xuất hàng xuất khẩu, hàng hóa xuất nhập khẩu chuyển cửa khẩu. Doanh nghiệp được hưởng sự ưu tiên về thủ tục và được cơ quan hải quan hỗ trợ kịp thời trong quá trình khai báo cũng như làm thủ tục. Số lượng giấy tờ phải nộp/xuất trình giảm hẳn so với thủ tục hải quan truyền thống. Thời gian thông quan trung bình được rút ngắn, chi phí thông quan hàng hóa giảm, đặc biệt với hàng kinh doanh xuất khẩu, thủ tục hải quan điện tử đã thể hiện tính thuận lợi so với thủ tục hải quan truyền thống. Doanh nghiệp và cơ quan hải quan có khả năng kiểm soát toàn bộ quá trình luân chuyển của bộ hồ sơ cũng như việc thực hiện thủ tục hải quan của nhân viên cấp dưới. Thông tin khai hải quan cũng trở nên nhất quán, chuẩn hóa cả từ phía doanh nghiệp và hải quan, tạo thuận lợi cho công tác quản lý tại khâu thông quan và các khâu sau.
Theo số liệu thống kê từ 2006 đến 2008: đã có 537 doanh nghiệp tham gia, thông quan cho gần 100.000 tờ khai với lưu lượng trung bình năm 2008 đạt 116 tờ khai/ngày (tăng 17% so với 2007). Tổng kim ngạch xuất nhập khẩu từ 2006 đến 2008 đạt xấp xỉ 9,853 tỷ USD với số thuế thu được xấp xỉ 9,287 tỷ đồng. Tỷ lệ phân luồng tại Hải Phòng: Xanh: 67%, Vàng: 10%, Đỏ: 23%. Tại TP. Hồ Chí Minh: Xanh: 39%, Vàng: 49%, Đỏ: 12%. Thời gian thông quan trung bình đối với các lô hàng luồng xanh là 5 - 10 phút, luồng vàng từ 20 - 30 phút, luồng đỏ phụ thuộc vào thời gian kiểm tra hàng hóa.
Tuy nhiên, qua thời gian thực hiện vẫn còn nhưng tồn tại. Một số nội dung trong thủ tục Hải quan điện tử vẫn còn chậm triển khai hoặc chưa thể triển khai, các nội dung đã triển khai mới chỉ áp dụng với số lượng doanh nghiệp tham gia và địa bàn áp dụng còn hạn chế. Mô hình thông quan với giai đoạn đầu nhưng khó mở rộng. Phần mềm ứng dụng triển khai chưa đạt tiến độ, vẫn còn phải hiệu chỉnh nhiều trong quá trình triển khai. Hạ tầng mạng và thiết bị tuy đã được nâng cấp nhưng chưa hoàn thiện, dịch vụ C-VAN vẫn chưa thực sự hoàn thiện.
Trong thời gian tới, Tổng cục Hải quan sẽ chuyển sang triển khai mở rộng áp dụng thủ tục hải quan điện tử cả theo chiều sâu (mở rộng về đối tượng và loại hình) và chiều rộng (về địa bàn). Giai đoạn từ nay đến tháng 6/2009, tiến hành các bước mở rộng ra các cục Hải quan Đồng Nai, Bình Dương. Giai đoạn từ tháng 6/2009 đến tháng 12/2009: tiến hành các bước triển khai mở rộng cho các chi cục Hải quan Hà Nội, Lạng Sơn, Đà Nẵng. Đối với các cục hải quan khác, tiếp tục đẩy mạnh tiếp nhận khai hải quan qua mạng, từ xa để làm tiền đề mở rộng sang thủ tục hải quan điện tử.
Để đạt được các mục tiêu đề ra, về nội lực, ngành Hải quan sẽ tiến hành cải thiện về cơ sở pháp lý, quy trình nghiệp vụ, với mô hình thông quan và mô hình tổ chức phù hợp, về hệ thống CNTT và các điều kiện đảm bảo khác. Ngoài ra, để công cuộc đổi mới thành công, cũng rất cần sự phối hợp giữa các đơn vị thuộc Bộ Tài chính và các Bộ, ngành khác trong việc ban hành các chính sách quản lý cũng như chuẩn hóa, mã hóa các danh mục quản lý chuyên ngành; đẩy nhanh quá trình triển khai hạ tầng kỹ thuật và pháp lý liên quan đến giao dịch điện tử; quy hoạch lại các điểm làm thủ tục hải quan, địa điểm kiểm tra hàng hóa tập trung tại các cảng biển, sân bay, khu công nghiệp... để có thể đầu tư trang thiết bị kiểm tra hàng hoá.
7.3. KẾ HOẠCH PHÁT TRIỂN CHÍNH PHỦ ĐIỆN TỬ Ở VIỆT NAM
7.3.1. Mục tiêu đến hết năm 2010
7.3.1.1. Nâng cao năng lực quản lý, điều hành của các cơ quan nhà nước
a) Hướng tới xây dựng các cơ quan điện tử
- Bảo đảm trung bình 60% (năm 2009 là 30%) các thông tin chỉ đạo, điều hành của lãnh đạo các Bộ, cơ quan ngang Bộ, cơ quan thuộc Chính phủ, Ủy ban nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương được đưa lên cổng thông tin điện tử hoặc trang thông tin điện tử.
- Tỷ lệ trung bình cán bộ, công chức sử dụng thư điện tử cho công việc ở các Bộ, cơ quan ngang Bộ, cơ quan thuộc Chính phủ, Ủy ban nhân dân thành phố trực thuộc Trung ương là 80% (năm 2009 là 70%); Ủy ban nhân dân tỉnh là 60% (năm 2009 là 50%), trong đó các tỉnh miền núi (tới cấp huyện) là 30% (năm 2009 là 20%).
- Tỷ lệ Vụ, Văn phòng Bộ, cơ quan ngang Bộ, cơ quan thuộc Chính phủ, Văn phòng Ủy ban nhân thành phổ trực thuộc Trung ương triển khai sử dụng phần mềm ứng dụng quản lý văn bản và điều hành trên môi trường mạng là 90% (năm 2009 là 80%): Văn phòng Ủy ban nhân dân tỉnh là 80% (năm 2009 là 70%) và Văn phòng Ủy ban nhân dân cấp huyện là 50% (năm 2009 là 30%).
- Nâng tỷ lệ trung bình máy tính trên cán bộ, công chức tại các Bộ, cơ quan ngang Bộ, cơ quan thuộc Chính phủ và Ủy ban nhân dân các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương. Giảm thiểu việc sử dụng giấy tờ. Khuyến khích cán bộ, công chức khai thác thông tin trên môi trường mạng phục vụ công tác.
b) Thông tin liên lạc ở khoảng cách xa, kết nối các cơ quan
Tăng dần và khuyến khích sử dụng các hình thức truyền thông cơ bản: thư điện tử, điện thoại, fax, hội nghị và họp trên môi trường mạng, đưa thông tin lên cổng thông tin điện tử hoặc trang thông tin điện tử để trao đổi thông tin ở khoảng cách xa.
7.3.1.2. Phục vụ người dân và doanh nghiệp
- Bảo đảm 100% các Bộ, cơ quan ngang Bộ, cơ quan thuộc Chính phủ, Ủy ban nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương có cổng thông tin điện tử hoặc trang thông tin điện tử với đầy đủ thông tin theo quy định tại Điều 28 của Luật Công nghệ thông tin.
- Bảo đảm 80% (năm 2009 là 60%) số cổng thông tin điện tử hoặc trang thông tin điện tử của các Bộ, cơ quan ngang Bộ, cơ quan thuộc Chính phủ, Ủy ban nhân dân tỉnh và 100% số cổng thông tin điện tử hoặc trang thông tin điện tử của Ủy ban nhân dân thành phố trực thuộc Trung ương cung cấp dịch vụ công trực tuyến mức độ 2 cho người dân và doanh nghiệp.
- Đẩy mạnh triển khai cung cấp các dịch vụ công trực tuyến mức độ 3 trên cổng thông tin điện tử của các Bộ, cơ quan ngang Bộ, cơ quan thuộc Chính phủ và Ủy ban nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương.
7.3.2. Định hướng đến năm 2015
- Ứng dụng công nghệ thông tin để đổi mới phương thức cung cấp thông tin và dịch vụ công cho người dân và doanh nghiệp. Phấn đấu đến năm 2015 cung cấp hầu hết các dịch vụ công cơ bản trực tuyến mức độ 3 hoặc 4, người dân và doanh nghiệp có thể trao đổi thông tin, gửi, nhận hồ sơ, thanh toán phí dịch vụ, nhận kết quả dịch vụ qua mạng.
- Ứng dụng công nghệ thông tin để đổi mới phương thức quản lý tài nguyên thông tin trong các cơ quan nhà nước. Phát triển các cơ sở dữ liệu quốc gia về con người, đất đai, tài chính, kinh tế, công nghiệp và thương mại tạo nền tảng triển khai Chính phủ điện tử. Từng bước tích hợp các hệ thống thông tin, tiếp tục xây dựng và mở rộng hệ thống thông tin và cơ sở dữ liệu phục vụ cho hoạt động quản lý, điều hành chung của cơ quan nhà nước và phục vụ người dân, doanh nghiệp.
- Ứng dụng công nghệ thông tin trong các cơ quan nhà nước nhằm xây dựng môi trường làm việc điện tử giữa các cơ quan nhà nước trên phạm vi toàn quốc, tạo thói quen làm việc của cán bộ, công chức trên môi trường mạng và hệ thống thông tin trợ giúp, thay thế văn bản giấy.
7.3.3. Nội dung kế hoạch
7.3.3.1. Nâng cao năng lực quản lý, điều hành của các cơ quan nhà nước
1. Các Bộ, cơ quan ngang Bộ, cơ quan thuộc Chính phủ, Ủy ban nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương thực hiện cải tiến quy trình công việc, thủ tục và chuẩn hóa nghiệp vụ; áp dụng hệ thống quản lý chất lượng theo tiêu chuẩn TCVN ISO 9001:2000.
2. Tiếp tục xây dựng, hoàn thiện và nâng cao hiệu quả ứng dụng các hệ thống thông tin phục vụ sự chỉ đạo, điều hành và quản lý của các cơ quan nhà nước, bao gồm các nội dung chủ yếu sau:
a) Hệ thống thư điện tử;
b) Hệ thống thông tin quản lý văn bản và điều hành;
c) Số hoá nguồn thông tin chưa ở dạng số theo thứ tự ưu tiên về thời gian và tầm quan trọng; tăng cường sử dụng văn bản điện tử.
3. Bảo đảm các cuộc họp của Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ với các Bộ, cơ quan ngang Bộ, cơ quan thuộc Chính phủ, Ủy ban nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương; các cuộc họp của Bộ, cơ quan ngang Bộ, cơ quan thuộc Chính phủ, Ủy ban nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương với các cơ quan trực thuộc có thể được thực hiện từ xa.
4. Phát triển và cung cấp thông tin trực tuyến phục vụ cán bộ, công chức trong các cơ quan nhà nước: thông tin công khai về tuyển dụng, chế độ lương, hưu, bảo hiểm, khen thưởng, kỷ luật.
5. Các Bộ, cơ quan ngang Bộ, cơ quan thuộc Chính phủ, Ủy ban nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương tiếp tục xây dựng và triển khai việc ứng dụng công nghệ thông tin vào các hoạt động nghiệp vụ phù hợp với đặc thù của từng cơ quan.
7.3.3.2. Phục vụ người dân và doanh nghiệp
1. Xây dựng và hoàn thiện các cổng thông tin điện tử hoặc trang thông tin điện tử của các Bộ, cơ quan ngang Bộ, cơ quan thuộc Chính phủ, Ủy ban nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương để cung cấp thông tin và dịch vụ công trực tuyến phục vụ người dân và doanh nghiệp theo Điều 28 của Luật Công nghệ thông tin. Tiếp tục cung cấp biểu mẫu điện tử qua cổng thông tin điện tử hoặc trang thông tin điện tử.
2. Các Bộ, cơ quan ngang Bộ, cơ quan thuộc Chính phủ, Ủy ban nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương căn cứ tình hình thực tế chỉ đạo triển khai cung cấp dịch vụ công trực tuyến mức độ 3. Trong giai đoạn 2009 - 2010 ưu tiên triển khai các nhóm dịch vụ công trực tuyến mức độ 3 sau đây:
a) Cấp giấy đăng ký kinh doanh;
b) Cấp giấy phép đầu tư;
c) Cấp giấy phép thành lập chi nhánh, văn phòng đại diện;
d) Cấp giấy phép xây dựng;
đ) Cấp chứng chỉ hành nghề hoạt động xây dựng;
c) Cấp giấy chứng nhận quyền sở hữu nhà và quyền sử dụng đất;
g) Cấp giấy đăng ký ô tô, xe máy;
h) Cấp giấy đăng ký tạm trú, tạm vắng;
i) Giải quyết khiếu nại, tố cáo;
k) Cấp giấy đăng ký hành nghề y, dược;
l) Cấp giấy phép hoặc dịch vụ đặc thù.
3. Hình thành kênh tiếp nhận ý kiến góp ý trên môi trường mạng, tổ chức đối thoại trực tuyến, chuyên mục hỏi đáp trực tuyến về hoạt động của các cơ quan nhà nước để phục vụ người dân, doanh nghiệp.
7.3.3.3. Xây dựng nền tảng phục vụ Chính phủ điện tử
1. Phát triển hạ tầng truyền thông
a) Hoàn thành việc xây dựng Mạng truyền số liệu chuyên dùng của các cơ quan Đảng, Nhà nước.
b) Xây dựng và nâng cấp các mạng nội bộ (LAN) và mạng diện rộng (WAN) của các cơ quan nhà nước.
2. Phát triển cơ sở dữ liệu
Từng bước xây dựng cơ sở dữ liệu phục vụ các nhiệm vụ ứng dụng công nghệ thông tin nêu trong Kế hoạch này. Tập trung chuẩn bị đầu tư và phát triển các cơ sở dữ liệu quốc gia.
3. Xây dựng, ban hành tiêu chuẩn, quy chuẩn kỹ thuật quốc gia về công nghệ thông tin áp dụng trong các cơ quan nhà nước.
4. Phát triển mô hình điểm
Tiếp tục nghiên cứu, đánh giá và lựa chọn mô hình ứng dụng công nghệ thông tin điển hình cấp huyện để phổ biến áp dụng rộng rãi.
5. Bảo đảm an toàn thông tin
a) Từng bước xây dựng hạ tầng khoá công khai cho các cơ quan nhà nước.
b) Xây dựng Trung tâm kỹ thuật an toàn mạng quốc gia.
c) Hoàn chỉnh hệ thống cung cấp dịch vụ chứng thực chữ ký số quốc gia (RootCA) và cung cấp dịch vụ chứng thực chữ ký số (CA).
d) Xây dựng Hệ thống xác thực quốc gia.
đ) Xây dựng Trung tâm kiểm thử các giải pháp công nghệ thông tin phục vụ phát triển Chính phủ điện tử.
6. Hoàn chỉnh môi trường pháp lý
a) Ban hành quy định về sử dụng các chương trình ứng dụng, hệ thống thông tin, cập nhật thông tin trên môi trường mạng.
b) Xây dựng và ban hành định mức kinh tế kỹ thuật về công nghệ thông tin.
7.3.3.4. Phát triển nguồn nhân lực công nghệ thông tin
1. Tiếp tục xây dựng và phát triển đội ngũ giám đốc công nghệ thông tin; bồi dưỡng kiến thức công nghệ thông tin cho cán bộ, công chức trong các cơ quan nhà nước.
2. Nghiên cứu xây dựng chế độ ưu đãi đối với cán bộ, công chức chuyên trách về công nghệ thông tin.
3. Tổ chức tập huấn, bồi dưỡng kiến thức về quản lý dự án công nghệ thông tin.
4. Đẩy mạnh ứng dụng đào tạo trực tuyến (online) cho cán bộ, công chức
BÌNH LUẬN ()